Bản án 08/2021/HNGĐ-ST ngày 26/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN H, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 08/2021/HNGĐ-ST NGÀY 26/01/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 26 tháng 01 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện H xét xử sơ thẩm, công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 350/2020/TLST- HNGĐ ngày 06/10/2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp quyền nuôi con chung” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 110/2020/QĐXX- ST ngày 24/12/2020 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Bình Phước và Quyết định hoãn phiên tòa số 04/2021/QĐ- HPT ngày 12/01/2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Hà Thị T, sinh năm 1990

2. Bị đơn: Anh Võ Trọng H, sinh năm 1989

Cùng cư trú: Tổ 5, ấp P, xã T, huyện H, tỉnh Bình Phước.

(Nguyên đơn có đơn xin vắng mặt, bị đơn vắng mặt không có lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết tại tòa án, nguyên đơn chị Hà Thị T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Hà Thị T và anh Võ Trọng H sau khi quen biết, tìm hiểu nhau và đi đến kết hôn vào năm 2005 tại UBND xã T, huyện B(nay là huyện H), tỉnh Bình Phước. Sau khi kết hôn và về chung sống với nhau tại tổ 5, ấp P, xã T, huyện H, tỉnh Bình Phước hạnh phúc được 10 năm thì nảy sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do anh H không lo làm ăn, không quan tâm đến gia đình. Ngoài ra ông H còn có quan hệ với người phụ nữ khác bên ngoài nên mâu thuẫn vợ chồng ngày một trầm trọng, không thể hạn gắn nên vợ chồng đã ly thân nhau, không còn quan tâm đến nhau nữa.

Nay chị T xét thấy quan hệ hôn nhân giữa chị và anh H đã mâu thuẫn trầm trọng kéo dài, không thể tiếp tục duy trì cuộc sống hôn nhân, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu được ly hôn với anh H để ổn định cuộc sống.

Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng có 01 con chung tên Võ Bảo M, sinh ngày 02/5/2006. Quá trình ly thân cháu M đang ở với chị T và nay chị yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung mà chưa yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung và nợ chung: Quá trình chung sống vợ chồng không tạo lập được tài sản chung và cũng không nợ ai, không cho ai vay nợ nên không đặt ra để yêu cầu tòa giải quyết.

Đối với bị đơn Võ Trọng H: Quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý vụ án, giải quyết và tại phiên tòa mặc dù Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng anh H vẫn không có mặt tại tòa án để hòa giải đoàn tụ, giải quyết vụ án. Tại phiên tòa hôm nay mặc dù Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng anh H vẫn vắng mặt lần hai mà không có lý do.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện H phát biểu như sau:

Về tố tụng: Thẩm phán đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự về việc thu thập chứng cứ, giải quyết vụ án từ khi nhận đơn, thụ lý vụ án đến trước khi Hội đồng xét xử mở phiên toà. Tại phiên toà hôm nay, Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Chị T có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt là quyền của đương sự theo quy định của pháp luật. Đối với anh H Quá trình giải quyết Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt; tại phiên tòa hôm nay anh H vẫn vắng mặt lần thứ hai mà không lý do nên xem từ bỏ quyền của mình tại phiên tòa nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào quy định tại khoản 1,3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự đề nghị Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho chị Hà Thị T được ly hôn với anh Võ Trọng H, giao con chung Võ Bảo M cho chị Hà Thị T trực tiếp nuôi dưỡng, về cấp dưỡng do chị T chưa yêu cầu nên không xem xét; tài sản và nợ chung không có nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng và quan hệ pháp luật: Chị Hà Thị T khởi kiện yêu cầu ly hôn với anh Võ Trọng H, bị đơn có nơi cư trú tại ấp P, xã T, huyện H, tỉnh Bình Phước; Căn cứ Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì đây là vụ án ly hôn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Bình Phước.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị T cho rằng chị Hà Thị T và anh Võ Trọng H sau khi quen biết, tìm hiểu nhau và đi đến kết hôn vào năm 2009 tại UBND xã T, huyện B(nay là huyện H), tỉnh Bình Phước là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn và về chung sống với nhau tại tổ 5, ấp P, xã T, huyện H, tỉnh Bình Phước hạnh phúc được 10 năm thì nảy sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do anh H không lo làm ăn, không quan tâm đến gia đình. Ngoài ra anh H còn có quan hệ với người phụ nữ khác bên ngoài nên mâu thuẫn vợ chồng ngày một trầm trọng nhưng chị T không ra được tài liệu, chứng cứ để chứng Mnh. Chị T xác định tình cảm vợ chồng không thể hạn gắn nên vợ chồng đã ly thân nhau, không còn quan tâm đến nhau nữa nên yêu cầu ly hôn. Hội đồng xét xử xét thấy: Quan hệ hôn nhân giữa chị Hà Thị T và anh Võ Trọng H đã mâu thuẫn trầm trọng, thể hiện quá trình Tòa án hòa giải đoàn tụ nhưng bị đơn không có mặt để hòa giải đoàn tụ, thể hiện anh H không muốn hòa giải đoàn tụ gia đình và nguyên đơn nhất quyết được ly hôn để ổn định cuộc sống. Theo chị T trình bày thì vợ chồng đã có thời gian ly thân dài mà không quan tâm gì với nhau. Quá trình xác Mnh tình trạng hôn nhân tại địa phương nơi chị T và anh H sinh sống thì xác định mặc dù mâu thuẫn vợ chồng anh H, chi T không yêu cầu Ban ấp hòa giải nhưng anh H thường xuyên vắng nhà, không quan tâm gia đình nên xác định mâu thuẫn tình cảm giữa chị T và anh H đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không thể kéo dài, chị T nhất quyết ly hôn nên để ổn định cuộc sống, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, cho chị T được ly hôn với anh H.

[3] Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng có 01 con chung tên Võ Bảo M, sinh ngày 02/5/2006, chị T nguyện vọng được trực tiếp nuôi con chung. Xét thấy quá trình giải quyết vụ án anh H không có mặt để trình bày nguyện vọng của mình về trực tiếp nuôi con chung. Mặt khác, quá trình ly thân con chung được chị T trực tiếp nuôi dưỡng nên để đảm bảo sự ổn định của con chung về mọi mặt, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về người trực tiếp nuôi con chung. Giao con chung Võ Bảo M cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng, cũng là phù hợp với nguyện vọng của con chưa thành niên.

[4] Về cấp dưỡng: Nguyên đơn chưa yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Nguyên đơn khai không có nên không giải quyết.

[6] Về án phí: Chị Hà Thị T phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo luật định.

[7] Về ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tại phiên tòa: Tại phiên tòa ý kiến của đại diện Viện kiểm sát có căn cứ pháp luật, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ nêu trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng vào Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, các Điều 39, 147, 264, 266, 227 và khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Áp dụng các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, Mễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về nội dung: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Hà Thị T - Về quan hệ hôn nhân: Chị Hà Thị T được ly hôn với anh Võ Trọng H.

(Theo Giấy chứng nhận kết hôn số 35 ngày 15/4/2009 của UBND xã T, huyện H, tỉnh Bình Phước).

- Về con chung: Giao con chung tên Võ Bảo M, sinh ngày 02/5/2006 cho chị Hà Thị T trực tiếp nuôi dưỡng.

Người không trực tiếp nuôi con chung có quyền đi lại, thăm nom, chăm sóc con chung mà không ai có quyền cấm đoán, ngăn cản. Vì lợi ích mọi mặt của con chưa thành niên, các bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con nếu có căn cứ cho rằng bên kia không đáp ứng được quyền lợi của con.

- Về cấp dưỡng: Do đương sự chưa yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- Về tài sản chung, nợ chung: Đương sự khai không có, không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

2. Về án phí: Chị Hà Thị T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0001889 ngày 01/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện H, tỉnh Bình Phước.

3. Quyền kháng cáo:

Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ để yêu cầu xem xét theo trình tự phúc thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

166
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 08/2021/HNGĐ-ST ngày 26/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:08/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hớn Quản - Bình Phước
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về