Bản án 08/2021/HNGĐ-ST ngày 26/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 08/2021/HNGĐ-ST NGÀY 26/01/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 26 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương xét xử công khai vụ án thụ lý số: 1090/2020/TLST-HNGĐ ngày 25 tháng 9 năm 2020 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 108/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 07 tháng 12 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 108/2020/QĐST-HNGĐ ngày 25 tháng 12 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Phạm Thị Ngọc A, sinh năm 1990; địa chỉ thường trú: Ô 10A, DC04, khu phố 4, phường A, thành phố T, tỉnh B. Có yêu cầu xét xử vắng mặt

- Bị đơn: Ông Vũ Đức C, sinh năm 1984; địa chỉ thường trú: Ô 10A, DC04, khu phố 4, phường A, thành phố T, tỉnh B. (Vắng mặt lần hai).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 29 tháng 9 năm 2020 và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn – bà Phạm Thị Ngọc A trình bày:

Bà Phạm Thị Ngọc A và ông Vũ Đức C tự nguyện tiến đến hôn nhân, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã N, huyện K, tỉnh B được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 01-2008, quyển số 01 ngày 02/01/2008.

Về con chung: Quá trình chung sống, bà Phạm Thị Ngọc A và ông Vũ Đức C có 02 người con chung tên Vũ Tiến Đ, sinh ngày 16/8/2008 và Vũ Minh T, sinh ngày 29/3/2010.

Thời gian đầu sau khi kết hôn, vợ chồng sống hạnh phúc. Sau đó vợ chồng bắt đầu xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân do tính tình không hợp nhau, bất đồng quan điểm sống dẫn đến cuộc sống hôn nhân không hòa hợp. Vợ chồng nhiều lần tạo cơ hội để đoàn tụ nhưng không thành, cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc. Vợ chồng đã sống ly thân với nhau từ tháng 7/2020 cho đến nay, không ai còn quan tâm đến cuộc sống của ai.

Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, không có khả năng hàn gắn nên bà Phạm Thị Ngọc A khởi kiện yêu cầu như sau:

Về quan hệ hôn nhân: Yêu cầu được ly hôn với ông Vũ Đức C.

Về con chung: Sau khi ly hôn, bà Phạm Thị Ngọc A yêu cầu được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng và giáo dục con chung tên Vũ Minh T, sinh ngày 29/3/2010. Giao con chung tên Vũ Tiến Đ, sinh ngày 16/8/2008 cho ông Vũ Đức C trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng và giáo dục Về cấp dưỡng: Không ai phải cấp dưỡng nuôi con cho ai.

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình tố tụng, bị đơn ông Vũ Đức C đã được Tòa án triệu tập hợp lệ theo quy định nhưng đều vắng mặt và không nộp cho Tòa án văn bản trình bày ý kiến của mình về yều cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Tại phiên tòa, nguyên đơn có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Bị đơn vắng mặt lần thứ hai đối với việc xét xử.

Vị đại diện Viện Kiểm sát tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký Tòa án: Thẩm phán được phân công thụ lý, giải quyết vụ án đã thực hiện đúng, đầy đủ các quy định tại Điều 203 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự về xét xử sơ thẩm.

Về việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án đến phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai đối với việc xét xử nhưng vắng mặt không rõ lý do, không đến tham gia phiên tòa xem như từ bỏ quyền và nghĩa vụ chứng minh của mình.

Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử như sau: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” của nguyên đơn.

Nhng yêu cầu, kiến nghị để khắc phục vi phạm về tố tụng: Không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn bà Phạm Thị Ngọc A có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Bị đơn ông Vũ Đức C đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không rõ lý do. Do vậy, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn theo quy định tại Điều 227, 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ pháp luật: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu được ly hôn và yêu cầu giải quyết về con chung nên quan hệ tranh chấp trong vụ án này là ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo quy định tại Khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[3] Về thẩm quyền giải quyết: Căn cứ đơn khởi kiện, biên bản xác minh ngày 03/10/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Thuận An tại Công an phường An Phú thể hiện bị đơn ông Vũ Đức C có đăng ký thường trú và hiện đang sinh sống tại địa chỉ Ô 10A, DC 04, khu phố 4, phường A, thành phố T, tỉnh Bình Dương, do đó vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương theo quy định tại Khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[4] Về nội dung:

[4.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà Phạm Thị Ngọc A và ông Vũ Đức C xác lập mối quan hệ hôn nhân trên cơ sở tự nguyện vào năm 2008, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã N, huyện K, tỉnh B và đã được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 01-2008, quyển số 01 ngày 02/01/2008 nên là hôn nhân hợp pháp.

Bà Phạm Thị Ngọc A khởi kiện yêu cầu được ly hôn với ông Vũ Đức C với lý do: Vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không có tiếng nói chung thường xuyên cãi nhau nên mâu thuẫn ngày càng trầm trọng. Hiện vợ chồng đã sống ly thân nhau, không ai quan tâm đến ai. Xét quan hệ hôn nhân giữa người vợ và người chồng chỉ tồn tại bền vững dựa trên tình cảm thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau chia sẽ, thực hiện các công việc trong gia đình và khi có những bất đồng quan điểm trong quan hệ vợ chồng thì người vợ và người chồng phải cùng nhau tích cực hàn gắn, xóa bỏ những mâu thuẫn, duy trì tình cảm tốt đẹp của vợ chồng. Nhưng quan hệ hôn nhân giữa bà A và ông C không đạt được các yếu tố của một gia đình hạnh phúc. Do tình trạng hôn nhân của bà A và ông C đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được phù hợp với quy định tại Khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình nên Hội đồng xét xử xét thấy có căn cứ chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị Ngọc A về việc ly hôn với ông Vũ Đức C.

[4.2] Về con chung: Xét từ nhỏ cháu Vũ Minh T và Vũ Tiến Đ sống chung với bà A và ông Đ tại địa chỉ Ô 10A, DC04, khu phố 4, phường A, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương. Đến khi bà A và ông C sống ly thân nhau thì bà A trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng con chung tên Vũ Minh Tiến và không còn sống tại địa chỉ trên; còn ông Vũ Đức C vẫn trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng con chung tên Vũ Tiến Đ tại địa chỉ nêu trên. Hiện các cháu vẫn được chăm sóc tốt, phát triển bình thường. Do đó, yêu cầu của bà A về con chung mỗi người nuôi một con chung là phù hợp nên chấp nhận.

[4.3] Về cấp dưỡng: Do bà A và ông C mỗi người nuôi một người con chung nên bà A không yêu cầu ai phải cấp dưỡng nuôi con cho, xét đây là sự tự nguyện của bà A nên ghi nhận.

[4.4] Về tài sản chung, nợ chung: Bà A không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Từ những nhận định trên, có đủ cơ sở để chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Phạm Thị Ngọc A

[5] Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa về nội dung vụ án là có cơ sở và phù hợp quy định của pháp luật.

[6] Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Nguyên đơn phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39, Khoản 4 Điều 147, Khoản 3 Điều 228, Điều 244, Điều 266 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 - Các Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị Ngọc A đối với ông Vũ Đức C về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”.

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Phạm Thị Ngọc A được ly hôn với ông Vũ Đức C.

- Về con chung:

Giao con chung tên Vũ Minh T, sinh ngày 29/3/2010 cho bà Phạm Thị Ngọc A trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.

Giao con chung tên Vũ Tiến Đ, sinh ngày 16/8/2008 cho ông Vũ Đức C trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.

- Về cấp dưỡng: Không ai phải cấp dưỡng nuôi con cho ai.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm:

Nguyên đơn bà Phạm Thị Ngọc A phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2016/0047320 ngày 24/9/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương.

Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

162
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 08/2021/HNGĐ-ST ngày 26/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:08/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về