Bản án 08/2020/HS-ST ngày 13/01/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUẬN CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 08/2020/HS-ST NGÀY 13/01/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 13 tháng 01 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 07/2019/TLST-HS, ngày 31 tháng 12 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 08/2020/QĐXXST-HS, ngày 02 tháng 01 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Lò Văn H; tên gọi khác: Không; sinh năm 1978, tại xã CL, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Bản P, xã CL, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Thái; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Trồng trọt; con ông Lò Văn M, (đã chết) và bà Cà Thị N (đã chết); bị cáo có vợ: Quàng Thị B; sinh năm: 1983 và 02 con, lớn 18 tuổi, nhỏ 14 tuổi; tiền sự: Không; tiền án: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 26-9-2019 đến nay có mặt tại phiên tòa.

2. Quàng Văn V; tên gọi khác: Không; sinh năm 1986, tại xã CL, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Bản P, xã CL, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Thái; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Trồng trọt; con ông Quàng Văn M, sinh năm: 1963 và bà Lò Thị T; sinh năm: 1963; bị cáo có vợ: Lành Thị L; sinh năm: 1994 và 02 con, lớn 03 tuổi, nhỏ 01 tuổi; tiền sự: Không; tiền án: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 26-9-2019 đến nay có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 22 giờ, ngày 26-9-2019, tổ công tác Công an xã TM, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La làm nhiệm vụ tại khu vực Bản L, xã TM, huyện Thuận Châu phát hiện bắt quả tang Lò Văn H và Quàng Văn V; đều trú tại: Bản P, xã CL, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.Vật chứng thu giữ gồm:

- 01 (Một) gói giấy màu trắng bên trong có chứa bột cục màu trắng nghi là Heroine (Lò Văn H và Quàng Văn V khai nhận là Heroine). Có khối lượng 0,10 gam, trích toàn bộ 0,10 gam ký hiệu H1 làm mẫu gửi giám định chất ma túy. Và 01 mảnh viên nén hình trụ màu tròn (Lò Văn H và Quàng Văn V khai nhận là ma túy tổng hợp), có khối lượng 0,07 gam, trích rút toàn bộ 0,07 gam ký hiệu H2 làm mẫu vật gửi giám định.

- 01 (Một) chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA loại xe WAVE RSX, biển kiểm soát 26M1-029.30, màu sơn đen vàng, xe đã qua sử dụng cũ.

Bản Kết luận giám định số: 1532, ngày 03-10-2019 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu H1 là ma túy, loại Heroine. Khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,10gam; mẫu gửi giám định ký hiệu H2 là chất ma túy, loại chất Methamphetamin, tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,07 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ được là: 0,10 gam loại Heroine và 0,07 gam loại Methamphetamine”. (Mẫu gửi giám định đã sử dụng hết trong quá trình giám định) Tại cơ quan điều tra các bị cáo Lò Văn H, Quàng Văn V đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như sau:

Khoảng 21 giờ, ngày 26-9-2019 Lò Văn H; trú tại: Bản P, xã CL, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La đang chơi tại bản thì gặp Quàng Văn V (là người cùng bản), Quàng Văn V đã rủ Lò Văn H góp tiền đi mua ma túy về cùng nhau sử dụng. Lò Văn H đồng ý và mỗi người góp 25.000đ, được 50.000đ, Lò Văn H cầm tiền và Quàng Văn V điều khiển xe mô tô của gia đình đèo Lò Văn H xuống bản L, xã TM, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La để mua ma túy. Đến nơi Lò Văn H, Quàng Văn V gặp và hỏi mua của một người đàn ông dân tộc Thái (Lò Văn H, Quàng Văn V đều không biết tên và địa chỉ cụ thể ở đâu) được môt gói ma túy, được gói bằng giấy màu trắng bên trong có chứa một ít bột cục màu trắng và 01 viên nén hình trụ màu tròn với giá là 50.000đ. Sau khi mua được ma túy, Lò Văn H cầm gói ma túy cất vào trong túi áo khoác đằng trước bên phải đang mặc, còn Quàng Văn V điều khiển xe mô tô trở Lò Văn H về nhà. Khi cả hai đi được 30 mét thì gặp tổ công tác Công an xã TM, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La yêu cầu dừng xe kiểm tra ma túy, quá trình kiểm tra phát hiện và bắt quả tang Lò Văn H, Quàng Văn V về hành vi: Tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ vật chứng như đã nêu.

Bản cáo trạng số: 07/CT-VKS, ngày 31-12-2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La đề nghị truy tố các bị cáo Lò Văn H, Quàng Văn V về tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý, theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La trong phần tranh luận vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo Lò Văn H, Quàng Văn V về điều, khoản và tội danh trên.

Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố các bị cáo Lò Văn H, Quàng Văn V phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 58 Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Lò Văn H mức án từ 12 (mười hai) tháng đến 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 26-9-2019.

Xử phạt bị cáo Quàng Văn V mức án từ 12 (mười hai) tháng đến 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 26-9-2019.

Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo Lò Văn H, Quàng Văn V.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự:

Tuyên tịch thu tiêu hủy: 01 mảnh giấy màu trắng + 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu. Các vật chứng trên được niêm phong trong cùng một phong bì thư gián kín, mặt trước ghi: “Vật chứng nhập kho vụ Lò Văn H cùng đồng phạm - Tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày 29-6-2019”. Mặt sau phong bì, gián giấy niêm phong có đầy đủ chữ ký, họ tên các thành phần tham gia niêm phong và hai hình dấu đỏ Cơ quan CSĐT Công an huyện Thuận Châu.

Các bị cáo Lò Văn H, Quàng Văn V phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định.

Ý kiến của các bị cáo: Nhất trí như lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Các bị cáo đã nhận thức rõ về hành vi phạm tội của mình xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt mức thấp nhất cho các bị cáo sớm được trở lại với gia đình và cộng đồng xã hội. Đề nghị miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều là hợp pháp.

[2]. Về nội dung vụ án: Ngày 26-9-2019, Lò Văn H, Quàng Văn V; đều trú tại: Bản P, xã CL, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,10 gam loại Heroine và 0,07 gam loại Methamphetamine. Tổng khối lượng hai chất ma túy các bị cáo tàng trữ là 0,17 gam. Mục đích tàng trữ để sử dụng cho bản thân.

Căn cứ lời khai nhận tội của các bị cáo Lò Văn H, Quàng Văn V tại phiên tòa, hoàn toàn phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, Biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu khác có trong hồ sơ. Các bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Trên cơ sở đó có đầy đủ điều kiện, đủ căn cứ kết luận các bị cáo Lò Văn H, Quàng Văn V phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý, tội phạm và hình phạt được quy định điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Như quyết định truy tố và quan điểm luận tội của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La tại phiên tòa là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo Lò Văn H, Quàng Văn V tàng trữ trái phép chất ma tuý với khối lượng không lớn, mục đích tàng trữ để sử dụng cho bản thân. Hành vi của các bị cáo xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, làm lây lan phát sinh các tệ nạn ma tuý và những tệ nạn xã hội khác. Là hành vi nguy hiểm cho xã hội gây mất trật tự an toàn xã hội ở địa phương. Cần vận dụng điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự có mức án phạt tù từ 01 năm đến 05 năm đối với các bị cáo Lò Văn H, Quàng Văn V.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo Lò Văn H, Quàng Văn V phạm tội lần đầu, tại cơ quan điều tra và tại phiên toà các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Đây là tình tiết giảm nhẹ đối với các bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo Lò Văn H có bố đẻ được tặng thưởng Huân chương kháng chiến Hạng hai. Các bị cáo Lò Văn H, Quàng Văn V sống ở vùng đặc biệt khó khăn. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xét vai trò của các bị cáo: Bị cáo Quàng Văn V rủ bị cáo Lò Văn H đi mua ma túy, các bị cáo góp tiền ngang nhau và cùng nhau đi mua ma túy. Do vậy cần vận dụng Điều 58 Bộ luật Hình sự để cá thể hóa hình phạt đối với các bị cáo.

Song nhân thân bị cáo Lò Văn H, Quàng Văn V đều nhận thức rõ tác hại của ma tuý nhưng do coi thường pháp luật nên cố tình phạm tội nghiêm trọng. Nay xét thấy cần cách ly các bị cáo Lò Văn H, Quàng Văn V ra ngoài xã hội một thời gian mới đủ điều kiện cải tạo, giáo dục các bị cáo trở thành người làm ăn lương thiện có ích cho xã hội. Cần lên một mức án tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo mới đảm bảo tính chất nghiêm minh của pháp luật, giáo dục và phòng ngừa chung. Nhất là công tác phòng chống tội phạm và tội phạm ma tuý trong giai đoạn hiện nay.

Các bị cáo Lò Văn H, Quàng Văn V đang bị tạm giam, nay Hội đồng xét xử xét thấy cần tiếp tục tạm giam các bị cáo trong hạn 45 ngày kể từ ngày tuyên án. Vận dụng khoản 1, khoản 3 Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự.

Ngoài hình phạt chính là phạt tù các bị cáo Lò Văn H, Quàng Văn V còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự. Xét thấy các bị cáo không có tài sản riêng, không có đủ điều kiện và khả năng thi hành hình phạt bổ sung. Do vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ: Lò Văn H, Quàng Văn V khai là mua của một người đàn ông dân tộc thái (các bị cáo đều không biết họ tên và địa chỉ cụ thể) tại bản L, xã TM, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La vào ngày 26-9-2019 với số tiền 50.000 đồng. Do đó Cơ quan điều tra Công an huyện Thuận Châu không có căn cứ để làm rõ, mở rộng vụ án, cần chấp nhận. Đồng thời buộc các bị cáo phải chịu trách nhiệm về toàn bộ số ma túy bị thu giữ.

Đối với vật chứng: 01 (Một) chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA loại xe WAVE RSX, biển kiểm soát 26M1-029.30, màu sơn đen vàng, xe đã qua sử dụng cũ là phương tiện các bị cáo dùng vào việc phạm tội. Qua điều tra và tại phiên tòa xác định là tài sản chung của vợ chồng bị cáo Quàng Văn V và vợ là Lành Thị L. Việc bị cáo Quàng Văn V dùng vào việc phạm tội chị Lành Thị L không biết và đã cung cấp giấy tờ hợp pháp và có đơn xin xe. Do vậy, Cơ quan CSĐT Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu đã trả lại tài sản trên cho chị Lành Thị L là có căn cứ.

[3] Vật chứng vụ án: Đối với 01 mảnh giấy màu trắng + 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu là vật chứng thu giữ của các bị cáo còn lại sau khi trích rút gửi giám định, xét không còn giá trị sử dụng, cần tuyên tịch thu tiêu hủy. Vận dụng Điều 47 Bộ Luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[4] Về án phí: Các bị cáo Lò Văn H, Quàng Văn V phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm. Vận dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14; Ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[5]. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo Lò Văn H, Quàng Văn V có quyền kháng cáo bản án theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58 Bộ luật hình sự:

1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Lò Văn H, Quàng Văn V phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Về hình phạt:

Xử phạt bị cáo Lò Văn H 14 (mười bốn) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 26-9-2019 (là ngày bắt giam giữ đối với bị cáo).

Xử phạt bị cáo Quàng Văn V 14 (mười bốn) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 26-9-2019 (là ngày bắt giam giữ đối với bị cáo).

3. Về vật chứng vụ án: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tuyên tịch thu tiêu hủy: 01 mảnh giấy màu trắng + 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu. Các vật chứng trên được niêm phong trong cùng một phong bì thư gián kín, mặt trước ghi: “Vật chứng nhập kho vụ Lò Văn H cùng đồng phạm - Tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày 29-6-2019”. Mặt sau phong bì, gián giấy niêm phong có đầy đủ chữ ký, họ tên các thành phần tham gia niêm phong và hai hình dấu đỏ Cơ quan CSĐT Công an huyện Thuận Châu.

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Các bị cáo Lò Văn H, Quàng Văn V phải chịu án phí hình sự sơ thẩm, mỗi bị cáo là 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

5. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự. Các bị cáo Lò Văn H, Quàng Văn V được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

167
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 08/2020/HS-ST ngày 13/01/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:08/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuận Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về