Bản án 08/2020/HNGĐ-ST ngày 07/05/2020 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ N, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 08/2020/HNGĐ-ST NGÀY 07/05/2020 VỀ LY HÔN

Ngày 07 tháng 5 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã N xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 525/2019/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 12 năm 2019 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 07/2020/QĐXX-ST ngày 23 tháng 3 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 03/2020/QĐST-HNGĐ ngày 09 tháng 4 năm 2020, giữa:

1. Nguyên đơn: Nguyễn Thị H - sinh năm 1980

Địa chỉ: Thôn V - xã Q - thị xã N - Khánh Hòa.

Có mặt tại phiên tòa.

2. Bị đơn: Ông Trần Kim Đ - sinh năm 1977

Địa chỉ: Thôn V - xã Q - thị xã N - Khánh Hòa.

Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn xin ly hôn ngày 09/12/2019, bản tự khai ngày 20/01/2020 và tại phiên tòa nguyên đơn bà Nguyễn Thị H trình bày: Bà và ông Trần Kim Đ tự nguyện chung sống, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Q năm 2006. Quá trình chung sống giữa vợ chồng thường xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do ông Đ hay nhậu nhẹt say xỉn rồi về nhà kiếm cớ gây sự, chửi mắng bà. Ông Đ còn ham mê cờ bạc, thiếu trách nhiệm với gia đình và không quan tâm chăm sóc vợ con. Bà đã cố gắng khuyên bảo và cho ông Đ nhiều cơ hội để sửa đổi nhưng ông Đ vẫn không thay đổi tính tình. Bà và ông Đ không còn chung sống với nhau từ năm 2008 cho đến nay. Bà H xác định không còn tình cảm, vợ chồng không thể hàn gắn được nên yêu cầu ly hôn với ông Đ. Về con chung: vợ chồng có 01 con chung là Trần Kim Q - sinh ngày 01/5/2007, bà H yêu cầu được trực tiếp nuôi con và không yêu cầu ông Đ cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản chung không yêu cầu Tòa án giải quyết; nợ chung không có.

Bị đơn ông Trần Kim Đ đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng không đến tham gia giải quyết vụ án. Tòa án đã thực hiện việc tống đạt các văn bản tố tụng đối với ông Trần Kim Đ theo đúng quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã N phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng nguyên đơn đều thực hiện đúng theo trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; riêng bị đơn ông Đ không chấp hành theo đúng trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về thủ tục tố tụng: Bị đơn ông Trần Kim Đ đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lí do nên đề nghị Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt ông Đ theo quy định tại khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Xét thấy quan hệ hôn nhân của bà H và ông Đ đã mâu thuẫn trầm trọng nên đề nghị chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Bà H được ly hôn ông Đ theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

Về con chung: Đề nghị giao con chung Trần Kim Q - sinh ngày 01/5/2007 cho bà H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Bà H không yêu cầu ông Đ cấp dưỡng nuôi con chung nên đề nghị không xem xét.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà H không yêu cầu nên đề nghị không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Tòa án đã triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng bị đơn ông Trần Kim Đ vẫn vắng mặt không có lý do. Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về thẩm quyền giải quyết: Tranh chấp về hôn nhân và gia đình giữa bà Nguyễn Thị H và ông Trần Kim Đ thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã N, tỉnh Khánh Hòa theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị H và ông Trần Kim Đ tự nguyện chung sống, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Q (giấy chứng nhận kết hôn số 101, quyển số 5 ngày 16/11/2006), đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống với nhau giữa bà H và ông Đ đã phát sinh mâu thuẫn do ông Đ thiếu trách nhiệm, không quan tâm chăm sóc vợ con, ham mê cờ bạc dẫn đến vợ chồng không hòa hợp với nhau và không tìm được tiếng nói chung. Tại phiên tòa, bà H vẫn giữ nguyên yêu cầu xin được ly hôn với ông Đ; đối với ông Đ đã không có thiện chí muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn giữa bà H và ông Đ đã thực sự trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà H là hoàn toàn phù hợp.

[4] Về con chung: Bà H và ông Đ có 01 con chung là Trần Kim Q - sinh ngày 01/5/2007. Bà H là người đang trực tiếp nuôi cháu Q và bà yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung; nguyện vọng của con chung muốn được sống cùng mẹ. Xét yêu cầu của bà H phù hợp với pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Bà H không yêu cầu ông Đ cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Bà H không yêu cầu Tòa án giải quyết tài sản chung và xác định không có nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Bà H phải chịu án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Xét về quan điểm giải quyết vụ án của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã N là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39; Điều 147; khoản 2 Điều 227; Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 51; Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Bà Nguyễn Thị H được ly hôn ông Trần Kim Đ.

2. Về con chung: Bà Nguyễn Thị H được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung là Trần Kim Q - sinh ngày 01/5/2007. Bà H không yêu cầu ông Đ cấp dưỡng nuôi con chung.

Ông Đ có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được cản trở.

Vì lợi ích của con chung, khi cần thiết các bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con cũng như mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về án phí: Bà Nguyễn Thị H phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ mà bà H đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2018/0009123 ngày 16/12/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã N. Bà H đã nộp đủ án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Quy định : Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án.

4. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

264
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 08/2020/HNGĐ-ST ngày 07/05/2020 về ly hôn

Số hiệu:08/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Ninh Hòa - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về