Bản án 08/2019/HNGĐ-ST ngày 20/06/2019 về tranh chấp hôn nhân gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀ TRUNG, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 08/2019/HNGĐ-ST NGÀY 20/06/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

Ngày 20 tháng 6 năm 2019, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Hà Trung, xét xử công sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 46/2019/TLST-HNGĐ ngày 22 tháng 3 năm 2019 về “Tranh chấp hôn nhân gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 04/2019/QĐST-HNGĐ ngày 07 tháng 5 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Vũ Thị Hồng N, sinh năm 1991.

2. Bị đơn: Anh Vũ Văn T, sinh năm 1985.

Cùng địa chỉ: Thôn NG, xã HĐ, huyện HT, tỉnh Thanh Hóa.

Tại phiên toà có mặt chị N, vắng mặt anh T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 26/02/2019 và trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn là chị Vũ Thị Hồng N trình bày: Giữa nguyên đơn và bị đơn là anh Vũ Văn T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Hà Đông, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa ngày 11/4/2012. Cuộc sống vợ chồng hòa thuận hạnh phúc từ khi kết hôn đến giữa năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng về quan điểm sống, anh T chơi bời, bài bạc, thường xuyên mắng chửi, đánh đập chị. Mâu thuẫn của vợ chồng đã được hai bên gia đình hòa giải nhưng không thể hàn gắn được. Chị N và anh T đã sống ly thân từ tháng 03 năm 2019 cho đến nay. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, chị N đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Vũ Văn T.

Về con chung: Chị Vũ Thị Hồng N khai, vợ chồng có một con chung, cháu tên là Vũ Thị Yến N, sinh ngày 13/11/2012. Chị N đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cháu N, không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị, hiện nay chị đang làm tại công ty trách nhiệm hữu hạn giày Venus Việt Nam, thu nhập hàng tháng khoảng 9.000.000 đồng.

Về tài sản: Chị N không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản khai ngày 01/4/2019 và trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn là anh Vũ Văn T trình bày: Anh và chị Vũ Thị Hồng N kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Hà Đông, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa ngày 11/4/2012. Cuộc sống vợ chồng hòa thuận hạnh phúc từ khi kết hôn đến cuối năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng về quan điểm sống, cách sống, gia đình bên vợ can thiệp sâu vào cuộc sống của vợ chồng nên mâu thuẫn vợ chồng càng sâu sắc. Chị N đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ sinh sống từ ngày 29/3/2019 cho đến nay. Nay chị N đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn anh không đồng ý, đề nghị vợ chồng được đoàn tụ để nuôi dạy con cái.

Về con chung: Anh T khai vợ chồng có một con chung, cháu tên là Vũ Thị Yến N, sinh ngày 13/11/2012. Anh T đề nghị nếu ly hôn anh có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cháu N, không yêu cầu chị N phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh. Hiện anh đang làm nghề xây dựng thu nhập hàng tháng tùy theo công trình.

Về tài sản: Anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tại phiên tòa, chị N giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Anh Vũ Văn T đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên toà nhưng vẫn không có mặt nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt anh T là phù hợp với quy định tại điểm b, khoản 2, Điều 227; khoản 3, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về hôn nhân: Chị Vũ Thị Hồng N và anh Vũ Văn T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn, như vậy là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng hạnh phúc đến giữa năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng về quan điểm sống dẫn đến thường xuyên chửi mắng lẫn nhau. Chị N và anh T đã sống ly thân từ tháng 3 năm 2019 cho đến nay. Tại giấy xác nhận tình trạng chung sống vợ chồng chị N cung cấp cho Tòa án, có xác nhận của thôn và Ủy ban nhân dân xã Hà Đông cũng thể hiện vợ chồng bất đồng quan điểm sống và kinh tế, thường xuyên cãi cọ nhau. Như vậy, trong cuộc sống vợ chồng giữa chị N và anh T luôn tồn tại mâu thuẫn, xung đột dẫn đến vợ chồng sống ly thân nhau, tình cảm vợ chồng không những không hàn gắn được mà còn trở nên trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, căn cứ khoản 1, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 giải quyết cho chị N và anh T ly hôn là phù hợp.

[3]. Về con chung: Chị N và anh T thừa nhận vợ chồng có một con chung, cháu tên là Vũ Thị Yến N, sinh ngày 13/11/2012. Như vậy, đủ cơ sở khẳng định cháu Vũ Thị Yến N là con chung của chị N và anh T. Chị N và anh T đều có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cháu N. Tuy nhiên, cháu N là con gái và còn nhỏ, cần sự chăm sóc, chỉ bảo của mẹ, cần thiết phải giao cháu N cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng. Chị N không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con chung nên miễn xét.

[4]. Về tài sản: Chị N không yêu cầu, nên miễn xét.

[5]. Về án phí: Chị Vũ Thị Hồng N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân, theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1, Điều 56, Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Điều 6; khoản 5, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Vũ Thị Hồng N và anh Vũ Văn T.

2. Về con chung: Giao cháu Vũ Thị Yến N, sinh ngày 13/11/2012 cho chị Vũ Thị Hồng N trực tiếp nuôi dưỡng, anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị N. Anh T có quyền đi lại, thăm nom con chung không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Vũ Thị Hồng N phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân nhưng được trừ số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) chị N đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2017/0000442 ngày 20/3/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hà Trung. Chị N đã nộp đủ tiền án phí.

4. Về quyền kháng cáo: Chị N có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh T có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

239
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 08/2019/HNGĐ-ST ngày 20/06/2019 về tranh chấp hôn nhân gia đình

Số hiệu:08/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hà Trung - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về