Bản án 08/2019/HNGĐ-ST ngày 15/03/2019 về tranh chấp ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN K, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 08/2019/HNGĐ-ST NGÀY 15/03/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 15 tháng 3 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân quận K, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 254/2018/TLST-HNGĐ ngày 10 tháng 12 năm 2018 về tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 61/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 12 tháng 02 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 78/2019/QĐST-HNGĐ ngày 28 tháng 02 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn Q; địa chỉ: Tổ 16, phường B, quận K, thành phố Hải Phòng; có mặt.

- Bị đơn: Bà Nguyễn Thanh M; địa chỉ: Tổ 16, phường B, quận Kthành phố Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong Đơn khởi kiện (Về việc xin ly hôn) ngày 10-12-2018 và Bản tự khai ngày 17-12-2018, nguyên đơn là ông Nguyễn Văn Q (ông Q) trình bày: Về quan hệ hôn nhân, ông xây dựng hạnh phúc với bà Nguyễn Thanh M (bà M) trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường B, quận K, thành phố Hải Phòng vào ngày 13-12-1988 (Số: 15/1988). Vợ chồng chung sống được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do quan điểm sống của hai người không hợp nhau, thường xuyên xảy ra va chạm làm ảnh hưởng lớn tới cuộc sống, sinh hoạt. Mức độ mâu thuẫn ngày càng căng thẳng, vợ chồng đã sống ly thân nhiều năm, không ai quan tâm đến cuộc sống chung. Nay ông Q xác định tình cảm vợ chồng không còn khả năng đoàn tụ nên đề nghị Toà án giải quyết cho ông được ly hôn bà M. Về con chung, ông bà có 02 con là Nguyễn Thế V sinh ngày 27-11-1991 và Nguyễn Quỳnh Ch sinh ngày 09-11-1994. Các con đều đã đủ 18 tuổi và không thuộc trường hợp phải nuôi dưỡng nên ông Q không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về tài sản chung và công nợ, ông Q không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án bà M có mặt tại Tòa, viết bản tự khai, trình bày thống nhất với ông Q về điều kiện, thời điểm, địa điểm xây dựng hạnh phúc và đăng ký kết hôn, vợ chồng đã sống ly thân từ 2012 đến nay, cuộc sống chung không còn hạnh phúc, bà M đồng ý ly hôn với ông Q. Sau đó bà M vắng mặt, không hợp tác và Tòa án đã tống đạt những tài liệu sau: Thông báo về việc thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, thông báo về việc đã tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, biên bản đã tiếp cận công khai chứng cứ, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa nhưng bà M vẫn vắng mặt không có lý do.

Tại Biên bản xác minh ngày ngày 17-01-2019 và Biên bản xác minh ngày ngày 25-01-2019, địa phương nơi ông Q và bà M cư trú cung cấp về tình trạng, mức độ mâu thuẫn vợ chồng của ông bà không còn khả năng đoàn tụ, đề nghị Tòa án nhân dân quận K giải quyết theo nguyện vọng của nguyên đơn. Về con chung, hai con của ông bà đã đủ 18 tuổi và không thuộc trường hợp phải nuôi dưỡng. Bà M biết được ông Q có đơn xin ly hôn nhưng không có mặt theo giấy triệu tập của Tòa.

Tại phiên toà, ông Q vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện: Về quan hệ hôn nhân ông xin được ly hôn với bà M; về con chung: Các con đều đã đủ 18 tuổi và không thuộc trường hợp phải nuôi dưỡng nên ông Q không đề nghị Tòa án giải quyết. Về tài sản chung và công nợ, ông Q không đề nghị Tòa án giải quyết. Bà M vắng mặt tại các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai, chứng cứ và hòa giải, vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do.

Quan điểm của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận K tham gia phiên tòa về việc tuân theo pháp luật tố tụng và ý kiến về việc giải quyết vụ án như sau: Tòa án nhân dân quận K đã xác định đúng quan hệ pháp luật có tranh chấp, thẩm quyền, thời hạn giải quyết vụ án, tư cách đương sự, mối quan hệ giữa những người tham gia tố tụng, xác minh, thu thập chứng cứ, cấp, tống đạt, thông bảo văn bản tố tụng, tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải đều được thực hiện đúng theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 68, Điều 97, Điều 173, Điều 177, Điều 203, Điều 208, Điều 209, Điều 210 và Điều 211 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng: Nguyên đơn đã thực hiệnđúng, đầy đủ các quyền và nghĩa vụ tố tụng được quy định  tại các điều 70, 71 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn chưa thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ được quy định tại các điều 70, 72 và 199 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đề xuất việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các điều 51, 56 của Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án, xử:

Về quan hệ hôn nhân: Cho ông Nguyễn Văn Q được ly hôn bà Nguyễn Thanh M. Về con chung: Các concủa ông bà đã đủ 18 tuổi và không thuộc trường hợp phải nuôi dưỡng nên không xem xét. Tài sản chung và công nợ, ông bà không đề nghị giải quyết nên không xem xét. Về án phí: Ông Q phải nộp toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ kết quả tranh tụng, tranh luận tại phiên toà, Tòa án nhân dân quận Kiến An, thành phố Hải Phòng nhận định:

- Về tố tụng:

[1] Về quan hệ pháp luật có tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Ông Q có Đơn khởi kiện (Về việc xin ly hôn) với bà M. Đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bà M là bị đơn trong vụ án và cư trú tại Tổ 16, phường B, quận K, thành phố Hải Phòng nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Kiến An theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về thời hạn giải quyết vụ án: Tòa án nhân dân quận K thụ lý vụ án vào ngày 12-10-2018 và có Quyết định đưa vụ án ra xét xử vào ngày 12-02-2019 là đúng thời hạn chuẩn bị xét xử vụ án theo quy định tại Điều 203 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Thủ tục giải quyết vụ án: Quá trình giải quyết vụ án bà M vắng mặt nên Tòa án đã tống đạt hợp lệ những tài liệu sau: Thông báo về việc thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, thông báo về việc đã tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, biên bản đã tiếp cận công khai chứng cứ, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa nhưng bà M vẫn vắng mặt tại phiên tòa lần thứ 02 không có lý do. Vì vậy Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bà M theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về nội dung:

[4] Về quan hệ hôn nhân: Trong bản tự khai, biên bản xác minh và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án đều thể hiện nội dung ông Q và bà M xây dựng hạnh phúc với nhau trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường B, quận K, thành phố Hải Phòng vào ngày 13-12-1988 (Số: 15/1988). Vì vậy quan hệ hôn nhân của ông bà là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại khoản 1 Điều 8 và khoản 1 Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình. Sau khi chung sống được một thời gian giữa ông bà phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do quan điểm sống của hai người không hợp nhau, thiếu tôn trọng nhau, thường xuyên xảy ra va chạm làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống, sinh hoạt. Ông bà đã sống ly thân một thời gian dài nhưng không có giải pháp nào để khắc phục mâu thuẫn và đều xác định tình cảm vợ chồng không còn khả năng đoàn tụ nên đồng ý ly hôn. 

Sau khi Tòa án thụ lý vụ án, bà M có lời khai trình bày thống nhất với ông Q về điều kiện, thời điểm, địa điểm xây dựng hạnh phúc và đăng ký kết hôn, vợ chồng đã sống ly thân từ 2012 đến nay, cuộc sống chung không còn hạnh phúc, bà M đồng ý ly hôn với ông Q. Sau đó bà M vắng mặt tại các phiên họp, phiên hòa giải và vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do. Điều đó thể hiện rõ ý chí không mong muốn đoàn tụ vợ chồng của bà M. Như vậy có thể thấy rằng ông Q và bà M không còn yêu thương, quý trọng nhau, không tìm được tiếng nói chung trong cuộc sống, mức độ mâu thuẫn ngày càng căng thẳng, trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó cần áp dụng khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình để giải quyết cho ông Q và bà M.

[5] Về con chung: Các con của ông bà đều đã đủ 18 tuổi và không thuộc trường hợp phải nuôi dưỡng nên không xem xét.

[6] Về tài sản chung và công nợ: Ông Q và bà M đều không đề nghị giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về án phí: Ông Q là nguyên đơn phải nộp toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

[8] Về quyền kháng cáo: Ông Q và bà M được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Như vậy ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát tại phiên tòa về việc giải quyết vụ án là có cơ sở, phù hợp với các quy định của pháp luật nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Khoản 1 Điều 8, khoản 1 Điều 9, khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; Điều 244; khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án, tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa ông Nguyễn Văn Q và bà Nguyễn Thanh M.

2. Về con chung: Các con của ông bà đều đã đủ 18 tuổi và không thuộc trường hợp phải nuôi dưỡng nên không xem xét.

3. Về tài sản chung và công nợ: Ông Nguyễn Văn Q và bà Nguyễn Thanh M không đề nghị giải quyết nên Tòa án không xem xét.

4. Về án phí: Ông Nguyễn Văn Q phải nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm và được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0010296 ngày 10 tháng 12 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự quận K, thành phố Hải Phòng. Ông Nguyễn Văn Q đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm. 

5. Về quyền kháng cáo: Ông Nguyễn Văn Q được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bà Nguyễn Thanh M được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

200
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 08/2019/HNGĐ-ST ngày 15/03/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:08/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Kiến An - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về