TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN NGÔ QUYỀN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 08/2019/DS-ST NGÀY 25/10/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
Ngày 25 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 34/2019/TLST-DS ngày 28 tháng 5 năm 2019 về việc tranh chấp hợp đồng tín dụng theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 558/2019/QĐXXST-DS ngày 16 tháng 9 năm 2019 và Quyết định hoãn phiê n toà số 617/2019/QĐST-DS ngày 08 tháng 10 năm 2019 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại Cổ phần S; địa chỉ trụ sở: Phường M, Quận N, Thành phố Hồ Chí Minh;
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Nguyễn Bỉnh C; chức vụ: Nhân viên Ngân hàng Thương mại Cổ phần S - Chi nhánh Hải Phòng, là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn (Giấy ủy quyền số 182/2010/UQ- TTT ngày 02/01/2019); vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
- Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Thúy H; nơi cư trú: Phường Đ, quận N, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn Ngân hàng trình bày:
Ngày 28/03/2016, Ngân hàng Thương mại Cổ phần S (gọi tắt Ngân hàng) đã ký kết Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng (bao gồm Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng và bản Điều khoản, Điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng với bà Nguyễn Thị Thúy H). Căn cứ thu nhập của bà H, Ngân hàng đã cấp thẻ tín dụng cho bà Nguyễn Thị Thúy H với hạn mức là: 10.000.000 đồng; mục đích vay: Tiêu dùng cá nhân; lãi suất 2,15%/1 tháng. Sau khi được cấp thẻ tín dụng, bà H đã thực hiện các giao dịch với tổng số tiền là 9 .500.000 đồng.
Trong quá trình sử dụng thẻ, từ ngày kích hoạt bà H đã thanh toán cho Ngân hàng số tiền lãi và phí là 1.650.000 đồng. Tuy nhiên từ ngày 01/11/2016 cho đến nay, bà H đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ, Ngân hàng nhiều lần đôn đốc nhưng bà H không thực hiện nghĩa vụ như đã cam kết. Vì vậy, Ngân hàng đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ và chuyển toàn bộ dư nợ còn thiếu sang nợ quá hạn .
Nay, Ngân hàng có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết: Buộc bà Nguyễn Thị Thúy H phải trả nợ cho Ngân hàng Cổ phần Sài Gòn Thương Tín số tiền nợ tạm tính đến ngày 25/10/2019 là 23.427.998 đồng, trong đó: Nợ gốc:
10.798.494 đồng; nợ lãi quá hạn: 12.629.504 đồng. Bà Nguyễn Thị Thúy H phải tiếp tục trả nợ cho Ngân hàng số tiền lãi phát sinh từ ngày 26/10/2019 cho tới khi trả hết toàn bộ nợ vay theo Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng đã ký k ết ngày 28/03/2016.
Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn bà Nguyễn Thị Thúy H đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và H giải nhưng bà H vắng mặt không có lý do, không có quan điểm đối với yêu cầu của nguyên đơn, nên Tòa án không tiến hành được việc lấy lời khai của bà Nguyễn Thị Thúy H và không tiến hành H giải được.
Tại phiên tòa, người đại diện hợp pháp của nguyên đơn có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt và giữ nguyên ý kiến yêu cầu bị đơn phải thanh toán cho nguyên đơn và cung cấp bản sao kê dư nợ, đề nghị Tòa á n buộc bà Nguyễn Thị Thúy H phải trả nợ cho Ngân hàng số tiền nợ tính đến ngày 25/10/2019 là 23.427.998 đồng, trong đó: Nợ gốc: 10.798.494 đồng; nợ lãi quá hạn: 12.629.504 đồng. Bà Nguyễn Thị Thúy H phải tiếp tục trả nợ cho Ngân hàng số tiền lãi phát sinh từ ngày 26/10/2019 cho tới khi trả hết toàn bộ nợ vay theo Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng đã ký kết ngày 28/03/2016; bà Nguyễn Thị Thúy H phải chịu toàn bộ án phí theo quy định của pháp luật.
Bà Nguyễn Thị Thúy H vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai, không có lý do, mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa.
* Đại diện Viện Kiểm sát tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến tại phiên tòa:
- Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký là đúng quy định của pháp luật; việc chấp hành pháp luật của đương sự kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án nguyên đơn đã tuân thủ đúng các quy định của pháp luật; bị đơn bà Nguyễn Thị Thúy H không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ, không có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án.
- Về nội dung: Căn cứ vào các tài liệu do đ ương sự cung cấp và chứng cứ do Tòa án thu thập chứng cứ trên cơ sở tranh tụng tại phiên tòa. Đề nghị Hộ i đồng xét xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng: Buộc Nguyễn Thị Thúy H phải trả nợ cho Ngân hàng số tiền nợ tính đến ngày 25/10/2019 là 23.427.998 đồng, trong đó: Nợ gốc: 10.798.494 đồng; nợ lãi quá hạn: 12.629.504 đồng. Bà Nguyễn Thị Thúy H phải tiếp tục trả nợ cho Ngân hàng số tiền lãi phát sinh từ ngày 26/10/2019 cho tới khi trả hết toàn bộ nợ vay theo Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng đã ký kết ngày 28/03/2016; bà Nguyễn Thị Thúy H phải chịu toàn bộ án phí theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
- Về tố tụng dân sự:
+ Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết vụ án:
[1] Ngân hàng khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng được ký kết với bà Nguyễn Thị Thúy H. Đây là vụ án dân sự về việc tranh chấp hợp đồng tín dụng, phát sinh giữa nguyên đơn là tổ chức có đăng ký kinh doanh và bị đơn là bà Nguyễn Thị Thúy H; nơi cư trú: Phường Đ, quận N, thành phố Hải Phòng với mục đích vay tiêu dùng nên theo quy định của khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩ m quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng.
+ Về thời hạn giải quyết vụ án:
[2] Ngày 28 tháng 5 năm 2019, Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng thụ lý vụ án; đến ngày 08 tháng 10 năm 2019, Tòa án ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử . Như vậy, Tòa án đã tiến hành giải quyết vụ án theo đúng thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại điểm a khoản 1 Điều 203 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
+ Về sự vắng mặt của nguyên đơn:
[3] Nguyên đơn Ngân hàng Thương mại Cổ phần S vắng mặt, có đơn đề nghị Tòa án xử vắng mặt. Vì vậy, Toà án xét xử vụ án vắng mặt nguyên đơn theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
+ Về sự vắng mặt của bị đơn:
[4] Sau khi thụ lý vụ án, bị đơn bà Nguyễn Thị Thúy H đã được Tòa án tống đạt hợp lệ nhiều lần nhưng không thể tống đạt trực ti ếp các văn bản cho bị đơn, vì bà Nguyễn Thị Thúy H không có mặt tại nơ i cư trú: Phường Đ, quận N, thành phố Hải Phòng, nên các văn bản tố tụng đều được niêm yết theo quy định của pháp luật. Tòa án đã triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng bà Nguyễn Thị Thúy H tiếp tục vắng mặt không có lý do. Như vậy, bị đơn đã thay đổi địa chỉ nơi cư trú mà không báo cho người khởi kiện biết về nơi cư trú mới . Do đó, bị đơn thuộc trường hợp được coi là cố tình giấu địa chỉ theo quy định tại khoản 3 Điều 40; điểm b khoản 2 Điều 277 của Bộ luật Dân sự năm 2015. Vì vậy, Hội đồng xét xử vẫn tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tục chung là phù hợp với hướng dẫn tại điểm a khoản 2 Điều 6 của Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
- Về nội dung:
+ Xét tính hợp pháp của hợp đồng tín dụng:
[5] Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng ngày 28/03/2016 được ký kết giữa nguyên đơn và bị đơn tuân thủ các quy định của pháp luật theo Điều 121, Điều 122, Điều 124 của Bộ luật Dân sự năm 2005; Điều 17 Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng được ban hành theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước khi giao kết nên hợp đồng là hợp pháp. Do vậy làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các bên và các bên phải có trách nhiệm thực hiện các thỏa thuận đã cam kết trong hợp đồng theo quy định tạ i Điều 388, Điều 389 của Bộ luật Dân sự năm 2005.
+ Xét việc thực hiện hợp đồng của các bên và yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về khoản tiền nợ gốc:
[6] Quá trình thực hiện các hợp đồng, nguyên đơn đã giải ngân cho bị đơn số tiền vay theo thỏa thuận tại các hợp đồng đã ký như cam kết; bị đơn đã nhận đủ số tiền, nhưng bị đơn không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trả nợ như đã cam kết. Do đó, nguyên đơn đã chuyển toàn bộ số nợ vay còn thiếu sang nợ quá hạn và khởi kiện tại Tòa án là phù hợp với Điều 7 của Hợp đồng tín dụng các bên đã ký kết và quy định tại khoản 4 Điều 1 Quyết định số 127/2005/QĐ-NHNN ngày 03/02/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng. Nguyên đơn giao nộp căn cứ chứng minh là bảng sao kê chi tiết nợ gốc theo lịch trình đã trả theo hợp đồng tín dụng đã ký của bị đơn, được tính từ thời điểm giải ngân đến ngày xét xử ngày 25/10/2019. Xét các chứng cứ mà nguyên đơn cung cấp là phù hợp với nhau. Do đó, cần chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn theo quy định tại các Điều 471, Điều 474 của Bộ luật Dân sự năm 2005, buộc bị đơn phải trả cho nguyên đơn số tiền nợ gốc tính đến ngày 25/10/2019 là 10.798.494 đồng theo Hợp đồng sử dụng Thẻ tín dụng đã ký kết ngày 28/03/2016.
+ Về yêu cầu trả nợ lãi:
[7] Xét sự thỏa thuận về mức lãi suất vay của các bên là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật. Nguyên đơn cung cấp bảng tính lãi đối với bị đơn theo các hợp đồng tín dụng đã ký từ thời điểm giải ngân các khoản vay đến th ời điểm xét xử sơ thẩm phù hợp với chính sách lãi suất của Ngân hàng trong từng thời kỳ. Như vậy, bảng tính lãi của Ngân hàng có căn cứ chấp nhận. Đối chiếu bản tính lãi với tập sao kê do Ngân hàng cung cấp, tạm tính đến ngày xét xử sơ thẩm ngày 25/10/2019 thì khoản tiền nợ lãi quá hạn theo Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng đã ký kết ngày 28/03/2016 là 12.629.504 đồng. Xét cần chấp nhận yêu cầu trả nợ lãi của nguyên đơn theo quy định tại khoản 2 Điều 91 Luật các Tổ chức tín dụng đối với khách hàng.
[8] Từ những phân tích và nhận định trên, Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ, nên chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc buộc bị đơn bà Nguyễn Thị Thúy H phải trả nợ cho Ngân hàng theo Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng đã ký kết ngày 28/3/2016.
[9] Về án phí: Do toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng được chấp nhận nên bị đơn phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm theo khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bà Nguyễn Thị Thúy H phải nộp án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[10] Về quyền kháng cáo: Ngân hàng và bà Nguyễn Thị Thúy H được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 3 Điều 40, khoản 1 Điều 147, khoản 1 Điều 203, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1, khoản 3 Điều 228; Điều 238, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; căn cứ điểm a khoản 2 Điều 6 của Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
Căn cứ các điều 388, 389, 471, 474 của Bộ luật Dân sự năm 2005; căn cứ khoản 3 Điề u 40; điểm b khoản 2 Điều 277 của Bộ luật Dân sự năm 2015;
Căn cứ Điều 90, khoản 2 Điều 91, Điều 94, Điều 95, Điều 98 của Luật các Tổ chức Tín dụng;
Căn cứ khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội, xử:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương mại Cổ phần S: Buộc bà Nguyễn Thị Thúy H phải trả cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần S số tiền nợ của Hợp đồng sử dụng Thẻ tín dụng đã ký k ết ngày 28/3/2016, tính đến ngày 25/10/2019 là 23.427.998 đồng, trong đó: Nợ gốc: 10.798.494 đồng; nợ lãi quá hạn: 12.629.504 đồng.
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm ngày 26/10/2019, khách hàng vay còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cấp thẻ cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.
2. Về án phí: Bà Nguyễn Thị Thúy H phải nộp 1.171.400 (một triệu, một trăm bảy mươi mốt nghìn, bốn trăm) đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Hoàn trả lại cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần S số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 1.000.000 (một triệu) đồng, theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0005827 ngày 28/5/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng.
3. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn Ngân hàng Thương mại Cổ phần S; bị đơn bà Nguyễn Thị Thúy H được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
4. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người đượ c thi hành án dân sự, người phải thi hành án có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các đ iều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện the o quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 08/2019/DS-ST ngày 25/10/2019 về tranh chấp hợp đồng tín dụng
Số hiệu: | 08/2019/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Ngô Quyền - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 25/10/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về