Bản án 07/2019/HS-ST ngày 25/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 6, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 07/2019/HS-ST NGÀY 25/01/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 01 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 06/2019/TLST-HS ngày 11 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 07/2019/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 01 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Tạ Vũ Đ; Sinh ngày: 18/3/1994; Tại: Tỉnh Cần Thơ (nay là tỉnh Hậu Giang); Thường trú: Ấp PH, xã PP, huyện PH, tỉnh Hậu Giang; Nghề nghiệp: Tài xế xe tải; Trình độ văn hóa: 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Tạ Văn R và bà: Nguyễn Thị D; Có vợ: Không và con: Không; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Bị bắt, tạm giam ngày 07/10/2018.(có mặt)

2. Lê Tuấn D; Sinh ngày: 16/6/1997; Tại: Tỉnh Đồng Tháp; Thường trú: Ấp LB, xã LK B, huyện HN, tỉnh Đồng Tháp; Nghề nghiệp: Thợ sơn; Trình độ văn hóa: 5/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lê Hữu H và bà: Nguyễn Thị N (tên trong Giấy khai sinh là Lê Thị N); Có vợ: Không và con: Không; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Bị bắt, tạm giam ngày 07/10/2018.(có mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Ông Châu Đình T; Sinh năm: 1987; Trú tại: Ấp NT, xã HĐ B, huyện TH, tỉnh Long An. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 22 giờ 40 phút ngày 07/10/2018, Đội cảnh sát hình sự Công an Quận 6 phát hiện Tạ Vũ Đ đang điều khiển xe gắn máy biển số 62C1-087.54 chở Lê Tuấn D chạy đến trước cổng chính công viên PL - số 170 đường KDV, Phường M, Quận F có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra và đã thu giữ trên tay của D 01 gói nylon bên trong chứa tinh thể không màu (Đ và D đều khai đó là ma túy đá), nên đã giao Đ, D cùng vật chứng nêu trên cho Cơ quan điều tra Công an Quận 6 giải quyết.

Tại Cơ quan điều tra, Tạ Vũ Đ, Lê Tuấn D khai: Tối ngày 07/10/2018, sau khi nhậu xong, Đ rủ D mỗi người hùn 150.000 đồng để mua ma túy sử dụng, D đồng ý và đưa tiền cho Đ. Sau đó, Đ chở D đến khu vực NTBX thuộc quận BT mua từ một người tên P (không rõ lai lịch) 01 bịch ma túy đá giá 300.000 đồng. Sau khi nhận gói ma túy, Đ đưa cho D cầm rồi chở D chạy về đến công viên PL thì bị phát hiện bắt giữ như đã nêu trên.

Tại Kết luận giám định số: 1660/KLGĐ-H ngày 15 tháng 10 năm 2018, Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã kết luận: Tinh thể không màu trong 01 gói nylon được niêm phong, bên ngoài có các chữ ký ghi tên Nguyễn Minh Tấn (Điều tra viên), Tô Long Hải (người chứng kiến), Tạ Vũ Đ, Lê Tuấn D và hình dấu Công an Phường M, Quận 6 gửi đến giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,2294g (không phẩy hai hai chín bốn gam), loại Methamphetamine.

Đối với người đàn ông tên P bán ma túy cho Tạ Vũ Đ , Cơ quan điều tra không xác định được lai lịch.

Tại Cáo trạng số: 13/CT-VKSQ.6 ngày 11 tháng 01 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố các bị cáo Tạ Vũ Đ, Lê Tuấn D về tội «Tàng trữ trái phép chất ma túy» theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, các bị cáo Tạ Vũ Đ, Lê Tuấn D đều khai nhận chính các bị cáo vào tối ngày 07/10/2018, đã thực hiện hành vi mua 01 bịch ma túy tổng hợp (loại ma túy đá) giá 300.000 đồng (mỗi bị cáo hùn 150.000 đồng) để sử dụng và bị Công an phát hiện bắt quả tang như nội dung bản cáo trạng nêu.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 6 giữ nguyên quyết định truy tố các bị cáo Tạ Vũ Đ, Lê Tuấn D như bản cáo trạng và sau khi phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của các bị cáo cùng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với từng bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Phạt bị cáo Tạ Vũ Đ từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù về tội «Tàng trữ trái phép chất ma túy» theo điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Phạt bị cáo Lê Tuấn D từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù về tội «Tàng trữ trái phép chất ma túy» theo điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Không phạt tiền đối với các bị cáo, do các bị cáo không có khả năng thi hành.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu, sung vào ngân sách nhà nước 01 chiếc điện thoại di động màu trắng, phía sau có ghi chữ Iphone (đã qua sử dụng).

Tịch thu, tiêu hủy: 01 gói có chứa ma túy đã được niêm phong, bên ngoài có ghi vụ số: 1660/18/Q6, có chữ ký niêm phong lại của Giám định viên Nguyễn Xuân Sang, Điều tra viên Nguyễn Minh Tấn và 01 sim điện thoại Viettel 4G, số seri: 8984048000002427997.

Trả lại bị cáo Lê Tuấn D chiếc điện thoại di động màu xanh đen, bên ngoài có ghi chữ Zip, số Imei: 846171821116529; 01 sim điện thoại Vinaphone, số seri: 89840200010635884318.

Lời nói sau cùng, các bị cáo Tạ Vũ Đ, Lê Tuấn D đều cho rằng trong thời gian bị tạm giam, các bị cáo đã nhận thức được hành vi của các bị cáo là sai, là vi phạm pháp luật và xin Hội đồng xét xử xử phạt các bị cáo mức án nhẹ nhất để các bị cáo sớm trở về với gia đình, có cơ hội làm lại cuộc đời.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 6, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 6, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối chiếu lời khai của các bị cáo Tạ Vũ Đ, Lê Tuấn D tại phiên tòa là phù hợp với nhau và phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Biên bản thu giữ vật chứng, Kết luận giám định, lời khai của người làm chứng tại Cơ quan điều tra cùng những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ, nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận các bị cáo Tạ Vũ Đ, Lê Tuấn D đã cất giữ 0,2294 gam ma túy ở thể rắn (loại Methamphetamine) để sử dụng, là phạm tội «Tàng trữ trái phép chất ma túy». Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, đúng như Viện kiểm sát đã truy tố.

Hành vi của các bị cáo Tạ Vũ Đ, Lê Tuấn D không những đã xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước về việc cất giữ chất ma túy mà còn gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, trị an chung.

Các bị cáo Tạ Vũ Đ, Lê Tuấn D đều là những người đã trưởng thành, hoàn toàn có đủ khả năng nhận thức được hành vi cũng như hậu quả do hành vi của mình gây ra, nhưng để thỏa mãn lối sống không lành mạnh và nhất là xem thường pháp luật, nên các bị cáo đã cố tình thực hiện hành vi phạm tội nêu trên, do đó các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình.

[3] Đây là vụ án có đồng phạm mang tính giản đơn, với bị cáo Tạ Vũ Đ là người rủ rê và cùng bị cáo Lê Tuấn D hùn tiền đi mua ma túy về sử dụng.

[4] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo Tạ Vũ Đ, Lê Tuấn D là nghiêm trọng, bởi ma túy nói chung và Methamphetamine nói riêng là chất gây nghiện độc hại, việc sử dụng ma túy đã gây tác hại rất lớn và ảnh hưởng rất xấu đến sức khỏe, làm mất khả năng lao động, học tập của chính người sử dụng và đây cũng chính là nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội và tội phạm khác, do đó Hội đồng xét xử thấy cần phạt các bị cáo những mức án nghiêm khắc mới có tác dụng giáo dục đối với các bị cáo và để phòng ngừa chung. Tuy nhiên, xét các bị cáo tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa đều có thái độ thành khẩn khai báo; phạm tội lần đầu, chưa có tiền án, tiền sự, nên Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo khi lượng hình tùy theo tính chất, mức độ, vai trò tham gia của từng bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì các bị cáo Tạ Vũ Đ, Lê Tuấn D còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của các bị cáo tại phiên tòa cho thấy các bị cáo phạm tội không vụ lợi, là lao động tự do, không có thu nhập, điều kiện kinh tế còn khó khăn, vì vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[6] Việc xử lý vật chứng: Phương tiện mà bị cáo Tạ Vũ Đ khai dùng vào việc phạm tội là 01 chiếc điện thoại di động màu trắng, phía sau có ghi chữ Iphone (đã qua sử dụng), Hội đồng xét xử tịch thu, sung vào ngân sách nhà nước theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Riêng 01 gói có chứa ma túy đã được niêm phong, bên ngoài có ghi vụ số 1660/18/Q6, có chữ ký niêm phong lại của Giám định viên Nguyễn Xuân Sang, Điều tra viên Nguyễn Minh Tấn và 01 sim điện thoại Viettel 4G, số seri: 8984048000002427997, là vật cấm lưu hành, vật không có giá trị hoặc không sử dụng được, nên Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm a, điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Còn chiếc điện thoại di động màu xanh đen, bên ngoài có ghi chữ Zip, số Imei: 846171821116529 (bên trong có 01 sim điện thoại Vinaphone, số seri:89840200010635884318) thu giữ của bị cáo Lê Tuấn D. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đề nghị trả lại cho bị cáo D vì không đủ căn cứ xác định bị cáo D đã hoặc sẽ dùng vào việc phạm tội. Xét đề nghị của Viện kiểm sát là có cơ sở, nên Hội đồng xét xử chấp nhận theo quy định tại khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.(theo Phiếu nhập kho vật chứng số: 206/PNK ngày 13 tháng 12 năm 2018 của Công an Quận 6 - BL101)

Cơ quan điều tra xác định chiếc xe gắn máy biển số 62C1-087.54 thu giữ của bị cáo Tạ Vũ Đ, là tài sản hợp pháp của ông Châu Đình T. Ngày 07/10/2018, ông T cho Đ mượn xe đi công việc, nhưng sau đó Đ lại sử dụng chiếc xe làm phương tiện phạm tội, ông T không biết, nên đã xử lý trả chiếc xe lại cho ông T (theo Biên bản về việc trả lại đồ vật, tài liệu ngày 12/12/2018 - BL88), do đó Hội đồng xét xử không đề cập xử lý.

[7] Đối với người đàn ông tên P mà bị cáo Tạ Vũ Đ khai bán ma túy cho bị cáo, Cơ quan điều tra không xác định được lai lịch, do đó Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[8] Các bị cáo Tạ Vũ Đ, Lê Tuấn D phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố các bị cáo Tạ Vũ Đ, Lê Tuấn D phạm tội: «Tàng trữ trái phép chất ma túy».

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 17, Điều 58; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 50 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Tạ Vũ Đ 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 07/10/2018.

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 17, Điều 58; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 50 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Lê Tuấn D 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 07/10/2018.

- Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu, sung vào ngân sách nhà nước 01 (một) chiếc điện thoại di động màu trắng, phía sau có ghi chữ Iphone (đã qua sử dụng).

- Căn cứ điểm a, điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu, tiêu hủy: 01 (một) gói có chứa ma túy đã được niêm phong, bên ngoài có ghi vụ số: 1660/18/Q6, có chữ ký niêm phong lại của Giám định viên Nguyễn Xuân Sang, Điều tra viên Nguyễn Minh Tấn và 01 (một) sim điện thoại Viettel 4G, số seri: 8984048000002427997.

- Căn cứ khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Trả lại bị cáo Lê Tuấn D 01 (một) chiếc điện thoại di động màu xanh đen, bên ngoài có ghi chữ Zip, số Imei: 846171821116529; 01 (một) sim điện thoại Vinaphone, số seri: 89840200010635884318.

- Căn cứ Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

- Các bị cáo Tạ Vũ Đ, Lê Tuấn D có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày được tống đạt hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

214
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 07/2019/HS-ST ngày 25/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:07/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 6 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về