Bản án 07/2019/HS-ST ngày 05/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN QUÂN SỰ KHU VỰC 1 QUÂN KHU 4

BẢN ÁN 07/2019/HS-ST NGÀY 05/08/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 05 tháng 8 năm 2019 tại Phòng xử án Tòa án quân sự Khu vực 1 Quân khu 4 đã xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 10/2019/TLST-HS ngày 24 tháng 6 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 10/2019/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 7 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Cao Xuân H; giới tính: nam; tên gọi khác: không; sinh ngày 10/9/1972; quê quán: DT, DC, Nghệ An; nơi ĐKNKTT: xóm HT, xã HL, thành phố V, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: bộ đội; cấp bậc, chức vụ, đơn vị khi phạm tội:

4/ CN, nhân viên báo vụ thuộc c18, Phòng T, Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh NA; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: kinh; tôn giáo: không; học vấn: 12/12; con ông: Cao Khắc T (đã chết) và bà: Lư Thị Đ (đã chết); có vợ: Võ Thị Thúy H và 02 con, con lớn sinh năm 2003, con nhỏ sinh năm 2007; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: chưa bị kết án, xử lý hành chính hay xử lý kỷ luật; bị tạm giữ từ ngày 12/3/2019 và tạm giam đến nay; hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Quân khu 4: có mặt.

Người làm chứng: Lê Xuân Đ; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lúc 0 giờ 05 phút ngày 12/3/2019, tổ công tác thuộc Đại đội cảnh sát cơ động - Công an tỉnh Nghệ An làm nhiệm vụ tại khu vực đường Phùng Chí Kiên thuộc thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An thì phát hiện 02 người đàn ông điều khiển 02 xe mô tô có biểu hiện nghi vấn nên đã yêu cầu kiểm tra hành chính. Qua kiểm tra biết được người điều khiển xe mô tô BKS 37L9-2049 là anh Cao Xuân H, trú tại xã HL, thành phố V, tỉnh Nghệ An. Người điều khiển xe mô tô BKS 37D1- 034.50 là anh Lê Xuân Đ, trú tại phường TT, thành phố V, tỉnh Nghệ An. Tổ kiểm tra cũng phát hiện trong túi quần bên phải, phía trước của anh Cao Xuân H đang mặc có 01 vỏ gói thuốc lá Thăng Long màu vàng, bên trong có chứa 03 viên nén hình tròn, màu hồng, trên bề mặt mỗi viên ký hiệu chữ “WY”. Anh Cao Xuân H trình bày đây là 03 (ba) viên ma túy dạng hồng phiến mà H cất dấu để sử dụng. Tổ công tác đã thu giữ tang vật và yêu cầu các đối tượng về trụ sở lập biên bản.

Kết luận giám định ngày 18/3/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An xác định mẫu viên nén màu hồng thu giữ của Cao Xuân H là chất ma túy (Methamphetamine). 03 (ba) viên nén màu hồng thu giữ của Cao Xuân H có tổng khối lượng là 0,310g (không phẩy ba trăm mười gam).

Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An đã tiến hành khởi tố vụ án, khởi tố bị can và tạm giam Cao Xuân H để điều tra về hành vi “tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thấy vụ án thuộc thẩm quyền của quân đội nên Công an thành phố Vinh đã chuyển hồ sơ để Cơ quan Điều tra hình sự khu vực 2 Quân khu 4 tiến hành điều tra, giải quyết vụ án theo thẩm quyền.

Cáo trạng số 03/CT-VKS ngày 21/6/2019 của Viện kiểm sát quân sự khu vực 41 truy tố bị can Cao Xuân H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Cao Xuân H khai nhận toàn bộ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy như Cáo trạng truy tố. Khi được người bạn tên H1 (hiện sinh sống ở Lào) cho 04 viên ma túy thì H đã cất dấu để sử dụng. Tối ngày 11/3/2019, H gọi điện cho Đ chỉ có mục đích rủ Đ đi chơi chứ không nhằm mục đích rủ đường cùng sử dụng chất ma túy. Khi H đang chuẩn bị sử dụng ma túy thì Đ gọi cho H hỏi H đang ở đâu để đến chơi thì H nói đang ở phòng 205 khách sạn HH. Khi Đ lên phòng 205 thấy H đang bắt đầu sử dụng ma túy thì Đ cũng vào sử dụng vì thời gian cùng công tác ở Lào thì H và Đ cũng đã từng sử dụng ma túy. Giữa H và Đ không có ước hẹn gì trước và H cũng không dụ dỗ, lôi kéo Đ cùng sử dụng ma túy. Việc H có ma túy thì Đ không biết. Khi bị lực lượng cảnh sát cơ động bắt đã thu giữ trên người bị cáo 03 viên ma túy dạng Hồng phiến và 01 điện thoại di động nhãn hiệu sam sung màu vàng đã qua sử dụng.

Người làm chứng Lê Xuân Đ khai tại phiên tòa: khoảng 21 giờ 00 phút ngày 11/3/2019, anh Cao Xuân H gọi điện cho Đ rủ đi chơi thì Đ đồng ý. Đ không biết và cũng không hỏi H đi chơi ở đâu, để làm gì. Sau khi gặp H tại phòng 205 Khách sạn HH (ở xóm MĐ, xã HL, thành phố V, tỉnh Nghệ An) và thấy H đang sử dụng ma túy thì Đ cũng ngồi vào hút cùng với H. Đ sử dụng ma túy cùng với H là bộc phát chứ giữa hai người không hẹn hò trước và Đ cũng không biết H có bao nhiêu ma túy. Sau khi sử dụng hết viên ma túy thì H và Đ cùng đi ăn cháo đêm. Sau khi ăn xong thì cả hai tiếp tục đi tìm chỗ để nghỉ ngơi nhưng vì thấy mệt nên cả hai người đã dừng xe lại bên đường để nghỉ thì bị tổ tuần tra của Đại đội cảnh sát cơ động Công an tỉnh Nghệ An kiểm tra hành chính và phát hiện anh H đang tàng trữ ma túy trên người.

Đi diện Viện kiểm sát quân sự khu vực 41 tham gia phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Cao Xuân H như Cáo trạng. Sau khi phân tích, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, các đặc điểm về nhân thân của bị cáo và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử: tuyên bố bị cáo Cao Xuân H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, t, v khoản 1 và khoản 2 Điều 51 do bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo đã tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm, bị cáo là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất chiến đấu, học tập hoặc công tác; bố của bị cáo được tặng Huân chương kháng chiến hạng nhất và Huy chương vì sự nghiệp giáo dục; vợ của bị cáo được tặng Huy chương chiến sỹ vẻ vang hạng nhì, ba; áp dụng Điều 38, Điều 54 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Cao Xuân H từ 09 (chín) tháng đến 11 (mười một) tháng tù. Về hình phạt bổ sung: không đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng. Về xử lý vật chứng: đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu, sung quỹ nhà nước 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Samsung có sim số 0392974269 (đã qua sử dụng) và tịch thu tiêu hủy 03 viên ma túy (Methamphetamine) là các vật chứng của vụ án đã thu giữ của Cao Xuân H đã được niêm phong theo quy định.

Tranh luận tại phiên tòa cũng như trong lời nói sau cùng, bị cáo Cao Xuân H ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình và mong nhận được khoan hồng của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của cơ quan Công an thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An; cơ quan Điều tra hình sự Khu vực 2 Quân khu 4; Điều tra viên; Viện kiểm sát quân sự khu vực 41; Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình khởi tố, điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Cao Xuân H tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố, phù hợp với lời khai của người làm chứng tại phiên tòa và các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án đã được kiểm tra, đánh giá tại phiên tòa. Vì vậy, có đủ cơ sở để khẳng định Cao Xuân H đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép 03 (ba) viên ma túy dạng hồng phiến (Methaphetamine) có tổng khối lượng 0,310 (không phẩy ba trăm mười) gam để sử dụng. Cao Xuân H là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được tác hại do ma túy gây ra; biết được việc các lực lượng chức năng đang nỗ lực đấu tranh với tội phạm ma túy và chính H đã nhiều lần cung cấp thông tin giúp Bộ đội Biên phòng tỉnh Nghệ An bắt được nhiều vụ vận chuyển trái phép chất ma túy từ Lào vào tỉnh Nghệ An song bản thân H lại tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng. Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy được thực hiện với lỗi cố ý. Viện kiểm sát quân sự khu vực 41 truy tố bị cáo Cao Xuân H về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ.

Cao Xuân H thuê phòng khách sạn là nhằm mục đích sử dụng ma túy tìm cảm giác lạ của cá nhân H. Lê Xuân Đ thấy Hải đang sử dụng ma túy thì cũng vào sử dụng cùng. Việc H rủ Đ đi chơi nhưng không nói cho Đ biết là đi đâu và làm gì, còn Lê Xuân Đ khi gặp H và thấy H đang sử dụng ma túy thì cũng vào sử dụng nên chưa đủ chứng cứ để xác định Cao Xuân H có hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy hay hành vi rủ rê, lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy. Đối với người đàn ông tên H1 hiện đang sinh sống tại Lào, chiếc xe và người phụ xe đã vận chuyển ma túy theo lời khai của H hiện nay không xác định được nên chưa đủ căn cứ để xác định trách nhiệm hình sự đối với họ.

[3] Trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo toàn bộ hành vi phạm tội, thể hiện sự ăn năn hối cải. Trong quá trình công tác, bị cáo cũng đã nhiều lần cung cấp các thông tin giúp Bộ đội Biên phòng tỉnh Nghệ An bắt được nhiều vụ vận chuyển trái phép chất ma túy từ Lào vào tỉnh Nghệ An. Bị cáo cũng được cấp có thẩm quyền tặng thưởng Huy chương chiến sỹ vẻ vang hạng nhất; được Thủ trưởng Bộ Tư lệnh Quân khu 4 tặng bằng khen vì đã có thành tích xuất sắc trong công tác quy tập Mộ liệt sỹ ờ Lào về Nước giai đoạn 1994-2005; ngoài ra bị cáo còn có nhiều giấy khen và danh hiệu chiến sỹ tiên tiến. Bố của bị cáo là ông Cao Khắc T được nhà nước tặng Huân chương kháng chiến hạng nhất, Huy chương vì sự nghiệp giáo dục. Vợ của bị cáo cũng được Nhà nước tặng Huy chương chiến sỹ vẻ vang hạng nhì, ba. Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, t, v khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo là có căn cứ.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo Cao Xuân H thuộc trường hợp nghiêm trọng đã xâm phạm đến hoạt động quản lý chất ma túy của Nhà nước. Tệ nạn ma túy nói chung và các tội phạm ma túy nói riêng gây ra nhiều nguy hiểm cho xã hội, ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường của con người, là nguồn gốc của các tội phạm khác. Bị cáo nhận thức được tác hại của chất ma túy và đã góp phần giúp cơ quan chức năng đấu tranh phòng, chống các tội phạm về ma túy. Nhưng chính bị cáo lại bị cuốn vào tệ nạn ma túy, tàng trữ chất ma túy để sử dụng nhằm thỏa mãn ý thích cá nhân. Hội đồng xét xử thấy rằng cần áp dụng Điều 38 Bộ luật Hình sự để xử phạt tù đối với bị cáo mới tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra và nhằm mục đích răn đe, phòng ngừa chung đối với tội phạm ma túy. Tuy nhiên, bị cáo là người có nhân thân tốt, ngoài lần phạm tội này, bị cáo chưa bị cơ quan, tổ chức nào xử phạt vi phạm hành chính hay xử lý kỷ luật và cũng chưa bị Tòa án kết tội lần nào. Bản thân bị cáo đã có nhiều năm công tác trong quân đội, đã hoàn thành các nhiệm vụ được giao và được cấp có thẩm quyền cho nghỉ chuẩn bị hưu. Trong quá trình giải quyết vụ án, bị cáo đã thành khẩn khai báo, thể hiện sự ăn năn hối cải; trong quá trình công tác, bị cáo đã có nhiều thành tích xuất sắc được tặng thưởng huy chương chiến sỹ vẻ vang hạng nhất; được Thủ trưởng Bộ Tư lệnh Quân khu 4 tặng bằng khen vì đã có thành tích xuất sắc trong công tác quy tập Mộ liệt sỹ ở Lào về Nước và được tặng các giấy khen, danh hiệu chiến sỹ tiên tiến khác; bố của bị cáo được tặng Huân chương kháng chiến hạng nhất và Huy chương vì sự nghiệp giáo dục; vợ của bị cáo được tặng Huy chương chiến sỹ vẻ vang hạng nhì, ba. Hội đồng xét xử xem xét, cân nhắc đặc điểm về nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy có đủ điều kiện để cho bị cáo được hưởng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng theo quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 54 Bộ luật Hình sự.

[5] Về hình phạt bổ sung: bị cáo đã sử dụng mối quan hệ quen biết cá nhân để xin được chất ma túy để sử dụng chứ không mua bán hay có mục đích mua bán để kiếm lời nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: Theo biên bản bắt người phạm tội quả tang thì khi kiểm tra hành chính đã thu giữ trên người bị cáo Cao Xuân H 01 (một) vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Thăng Long bên trong có 03 (ba) viên ma túy qua giám định xác định được là Methamphetamine có tổng khối lượng 0,310 (không phẩy ba trăm mười) gam; 01 (một) điện thoại di dộng nhãn hiệu Samsung màu vàng có số thuê bao 0392.974.269 của Cao Xuân H và 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung có số thuê bao 0966.354.353 của Lê Xuân Đ. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa xác định được số ma túy nói trên là do Cao Xuân H tàng trữ nhằm mục đích sử dụng. Chiếc điện thoại có số thuê bao 0392.974.269 được Cao Xuân H sử dụng để xin chất ma túy của người đàn ông tên H (ở nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào) để sử dụng và gọi điện rủ anh Đ đi chơi. Chiếc điện thoại có số thuê bao 0966.354.353 của Lê Xuân Đ dùng để liên quan với Cao Xuân H nhưng không trao đổi việc sử dụng hay tàng trữ chất ma túy. Hội đồng xét xử căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu, tiêu hủy số ma túy nói trên. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu sung vào ngân sách nhà nước chiếc điện thoại Samsung màu vàng có số thuê bao 0392.974.269 của Cao Xuân H vì đây là phương tiện dùng vào việc phạm tội. Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung có số thuê bao 0966.354.353 của Lê Xuân Đ bị thu giữ nhưng trong quá trình điều tra xác định không phải là vật chứng nên đã được trả lại cho chủ sở hữu trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về án phí: Căn cứ quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án buộc bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 260 Bộ luật tố tụng hình sự,

1. Về hình sự:

Căn cứ vào điểm c, khoản 1 Điều 249; các điểm s, t, v khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 54 Bộ luật hình sự, Tuyên bố bị cáo Cao Xuân H phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy"; Xử phạt bị cáo Cao Xuân H 09 (chín) tháng tù về tội “Tàng tữ trái phép chất ma túy”, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ (ngày 12/3/2019).

2. Về xử lý vật chứng:

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu, tiêu hủy 03 (ba) viên ma túy (Methamphetamine) có tổng khối lượng 0,310 (không phẩy ba trăm mười) gam kèm theo vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Thăng Long. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu sung vào ngân sách nhà nước chiếc điện thoại Samsung màu vàng có số thuê bao 0392.974.269 của Cao Xuân H. Các vật chứng nói trên có đặc điểm theo biên bản bắt người phạm tội quả tang lập tại Phòng cảnh sát cơ động Công an tỉnh Nghệ An ngày 12/3/2019.

3. Về án phí:

Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, buộc bị cáo Cao Xuân H phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo:

Trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm lên Tòa án quân sự Quân khu 4.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

246
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 07/2019/HS-ST ngày 05/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:07/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án quân sự
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về