Bản án 07/2019/HS-ST ngày 05/06/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH BẮC KẠN

BẢN ÁN 07/2019/HS-ST NGÀY 05/06/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 05 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 05/2019/TLST-HS ngày 19 tháng 4 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2019/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 5 năm 2019 đối với bị cáo:

HÀ KIM C, tên gọi khác: Không;

Sinh ngày 12 tháng 6 năm 1987 tại huyện CH, tỉnh Tuyên Quang;

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Thôn AV, xã TA, huyện CH, tỉnh Tuyên Quang;

Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12;

Dân tộc: Tày; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Hà Kim T và bà: Phạm Thị T;

Bị cáo có vợ là Dương Thị N và có 02 con, con lớn sinh năm 2008, con nhỏ sinh năm 2015.

Tiền sự: Không; Tiền án: Không.

Nhân thân:

Ngày 27/12/2012 bị Tòa án nhân dân huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ, xử phạt 24 tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản" và đã được xóa án tích.

Ngày 09/01/2019, tại bản án số 01/2019/HSST của Tòa án nhân dân huyện Quang Bình, tỉnh Hà Giang xử phạt bị cáo 30 tháng tù;

Ngày 09/5/2019, tại Bản án số 09/2019/HSST của Tòa án nhân dân huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn đã xử phạt bị cáo 30 tháng tù.Tổng hợp hình phạt của Bản án số 01/2019/HSST ngày 09/01/2019 của Tòa án nhân dân huyện Quang Bình, tỉnh Hà Giang 30 tháng tù. Hình phạt chung của 02 bản án nêu trên, bị cáo Hà Kim Cương phải chịu là 05 năm tù.

Ngày 15/5/2019, tại Bản án số 21/2019/HSST ngày 15/5/2019 của Tòa án nhân dân huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang đã xử phạt bị cáo 02 (hai) năm tù.

Hiện bị cáo đang chấp hành hình phạt tù tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Giang theo Bản án số 01/2019/HSST của Tòa án nhân dân huyện Quang Bình, tỉnh Hà Giang, (đến nay có mặt tại phiên tòa).

Bị hại:Dương Văn H,sinh năm 1952; Nghề nghiệp: Làm ruộng; trú tại: Thôn LC, xã QC, huyện CM, tỉnh Bắc Kạn, (có mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm:

1. Phạm Tuấn N, sinh năm 1972, trú tại: Khu 3, xã TĐ, thành phố VT, tỉnh Phú Thọ, (vắng mặt).

2. Hán Văn P, sinh năm 1957, trú tại: Khu 3, xã GT, thành phố VT, tỉnh Phú Thọ, (vắng mặt).

Người làm chứng gồm:

1. Lý Văn Q, sinh năm 1989, trú tại: Xóm CH, xã ĐĐ, huyện PL, tỉnh Thái Nguyên, (có mặt).

2.Đào Văn P, sinh năm 1976, trú tại: Khu 10, xã KĐ, thành phố VT, tỉnh Phú Thọ, (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Ngày 03/10/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn nhận được tin báo về tội phạm của Công an xã QC, huyện Chợ Mới về việc ngày 08/9/2018 ông Dương Văn H, sinh năm 1952, trú tại: thôn LC, xã QC, huyện CM bị mất trộm 01 con Trâu đực khoảng 02 năm tuổi. Ngày 12/10/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Chợ Mới nhận được phiếu chuyển tin báo về tội phạm của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Quang Bình, tỉnh Hà Giang, về việc trong quá trình điều tra vụ án trộm cắp tài sản xảy ra trên địa bàn huyện Quang Bình do đối tượng Hà Kim C, sinh năm 1987, trú tại: thôn AV, xã TA, huyện CH, tỉnh Tuyên Quang thực hiện, đối tượng Hà Kim C khai nhận còn được thực hiện hành vi trộm cắp 01 con trâu của gia đình ông Dương Văn H như đã nêu ở trên.

Tại cơ quan điều tra, Hà Kim C khai nhận: Ngày 07/9/2018, Lộc Văn T, sinh năm 1992, trú tại: xóm TP, xã ĐL, huyện ĐT, tỉnh Thái Nguyên gọi điện thoại rủ C đi trộm cắp trâu và C đã đồng ý (T là bạn C). Toàn điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, BKS: 20C1-163.52 đến đón C đi thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên. Sau đó T và C đi theo đường BOT hướng Thái Nguyên - Chợ Mới (Bắc Kạn). Khoảng 18h00 phút cùng ngày, cả hai đi đến địa phận thôn LC, xã QC, huyện CM, tỉnh Bắc Kạn,Toàn và Cương phát hiện 01 con Trâu của gia đình ông Dương Văn H, trú tại: thôn LC, xã QC, huyện CM, Bắc Kạn đang nhốt trong chuồng gần đường đi, cách xa nhà ông H,nên cả hai bàn bạc, thống nhất với nhau quay về thành phố Thái Nguyên đợi đến đêm quay lại lấy trộm con Trâu trên. Khi về đến thành phố Thái Nguyên, T gọi điện thoại cho Lý Văn Q, sinh năm 1989, trú tại: Xóm CH, xã ĐĐ, huyện PL, tỉnh Thái Nguyên là người làm nghề lái xe tải chở hàng thuê (Q là bạn của T), T nói với Q khi nào T gọi điện thoại thì Q chở thuê cho T một chuyến trâu từ tỉnh Bắc Kạn đi tỉnh Phú Thọ thì được Q đồng ý. Đến khoảng 02h00 phút, ngày 08/9/2018, T điều khiển xe mô tô BKS: 20C1-163.52 đến thôn LC, xã QC, huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn. Khi đến nơi T dừng xe lại ở bên phải đường, để C xuống rồi T điều khiển xe mô tô quay lại khoảng 500m thì dừng lại và gọi điện thoại cho Q đến chở trâu. Lúc này, C đi bộ vào mở cửa chuồng trâu nhà ông ồ, tháo dây thừng rồi dắt 01 con trâu đực khoảng 02 năm tuổi ra đường BOT đi theo hướng Chợ Mới, Bắc Kạn- Thái Nguyên khoảng 500m, thì gặp T và Q đang đứng đợi tại đó. C cùng T dắt con trâu lên thùng xe ô tô tải BKS:89K-2605 do Q điều khiển, lúc này Q không biết con trâu do trộm cắp mà có. Sau đó T, C điều khiển xe mô tô BKS: 20C1-163.52 đi trước, Q điều khiển ô tô theo sau đến xã KĐ, thành phố VT, tỉnh Phú Thọ. Khi đến nơi, C gọi điện thoại nhờ Đào Văn P, sinh năm 1976, trú tại: Khu 10, xã KĐ, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ để gửi con trâu trên, trước khi gửi C không cho Phi biết con trâu trên là tài sản do trộm cắp mà có, nên Phi đã đồng ý và chỉ dẫn C đem trâu đến thả tại khu ruộng của mẹ mình là bà Kiều Thị T, sinh năm 1946, trú tại: Khu 10, xã KĐ, thành phố VT, tỉnh Phú Thọ. Sau đó thông qua anh Đào Văn P, C, T đã bán con trâu trên cho anh Phạm Tuấn N, sinh năm 1972, trú tại: Khu 3, xã TĐ, thành phố VT, tỉnh Phú Thọ, sau đó N bán con trâu này cho anh Hán Văn P, sinh năm 1957, trú tại: Khu 3, xã GT, huyện PN, tỉnh Phú Thọ.

Trên cơ sở kết quả điều tra, xác minh có đủ căn cứ, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Chợ Mới đã ra Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Hà Kim C và Lộc Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định Điều 173 Bộ luật hình sự. Hiện nay Toàn đã bỏ trốn, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn đã ra Quyết định truy nã.

Ngày 24/10/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Chợ Mới đã ra Quyết định yêu cầu định giá tài sản đối với 01 con Trâu đực khoảng 02 năm tuổi do bị cáo trộm cắp. Tại Kết luận định giá tài sản số 40/KL-HĐĐG ngày 30/10/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thuộc UBND huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn, kết luận: Con trâu của gia đình ông Dương Văn H tại thời điểm bị C, T chiếm đoạt có giá trị là: 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng).

Tại bản cáo trạng số 05/CT-VKSCM ngày 18/4/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn đã truy tố Hà Kim C về tội "Trộm cắp tài sản" theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn vẫn giữ nguyên quyết định truy tố Hà Kim C và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Hà Kim C phạm tội "Trộm cắp tài sản" đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173, Điều 38, điểm b,s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Hà Kim C từ 15 đến 18 tháng tù.

* Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 46 và khoản 1 Điều 48/BLHS; Các Điều 357, 468, 584, 585, 586, 589/BLDS. Buộc bị cáo Hà Kim C có trách nhiệm bồi thường số tiếp số tiền 12.000.000đ cho bị hại Dương Văn H. Tạm giữ số tiền 3.000.000đ do Lý Văn Q tự nguyện nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Chợ Mới để đảm bảo thi hành án cho bị cáo Hà Kim C.

* Về xử lý vật chứng:

- 01 (một) điện thoại di động của Hà Kim C dùng để liên lạc với T để bàn bạc việc đi trộm cắp trâu,qua điều tra xác định chiếc điện thoại này C đã đánh rơi mất nên không thu giữ được.

- 01 (một) xe ô tô nhãn hiệu KIA, BKS 89K-2605, Lý Văn Q sử dụng để chở Trâu thuê cho Lộc Văn T và Hà Kim C vào ngày 08/9/2018. Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã xác định chiếc xe ô tô trên thuộc quyền sở hữu của ông Lý Văn Qt (bố đẻ Lý Văn Q), nên đã trả lại cho chủ sở hữu sử dụng là ông Lý Văn Q.

- 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại Sirius BKS 20C1-163.52 mà Lộc Văn T điều khiển vào ngày 07, 08/9/2018, hiện nay Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Quang Bình, tỉnh Hà Giang đang tạm giữ trong một vụ án khác, do T đang bỏ trốn nên khi nào bắt được T sẽ xem xét, xử lý sau.

- Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 buộc bị cáo Hà Kim C phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm, và tiền án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch.

Tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo và những người tham gia tố tụng khác nhất trí với quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Bị cáo có lời nói sau cùng: Bị cáo xin Hội đồng xét xử cho bị cáo hưởng mức án nhẹ nhất, để bị cáo sớm được trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Viện kiểm sát, Điều tra viên, Kiểm sát viên của huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội, chứng cứ buộc tội đối với bị cáo: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm là phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra và các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Khi phạm tội bị cáo đủ năng lực hành vi, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, với hành vi bàn bạc, thống nhất việc tiến hành trộm cắp tài sản, Hà Kim C và Lộc Văn T đã lén lút, bí mật chiếm đoạt tài sản là 01 con Trâu đực khoảng 02 năm tuổi của ông Dương Văn H vào ngày 08/9/2018, hành vi của T và C là cố ý thực hiện tội phạm, tài sản bị cáo Hà Kim C chiếm đoạt được theo kết quả định giá có tổng giá trị: 20.000.000đ, sau cả hai đã bán cho Phạm Tuấn N đến nay đã tiêu sài hết, Cơ quan điều tra không thu hồi được. Do vậy, với các tài liệu, chứng khác có trong hồ sơ vụ án đã đủ căn cứ để kết luận bị cáo Hà Kim C phạm tội "Trộm cắp tài sản" theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn đã truy tố là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Điều luật có nội dung:

"1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm"

[3] Hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, đồng thời còn làm mất trật tự trị an tại địa phương, gây lo lắng cho quần chúng nhân dân trong việc quản lý, bảo vệ tài sản. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, nhưng vì ham chơi, đua đòi, lười lao động, bị cáo đã lợi dụng thời điểm trời tối và mọi người ngủ say để lén lút trộm cắp tài sản bán lấy tiền chi tiêu cá nhân. Tài sản bị cáo thực hiện hành vi trộm cắp trong vụ án này, là 01 con Trâu đực qua định giá là 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng), nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Do vậy, cần xử lý nghiêm bị cáo bằng pháp luật hình sự tương xứng với tính chất, hành vi phạm tội do bị cáo gây ra, nhằm giáo dục răn đe và phòng ngừa chung cho toàn xã hội.

[4] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo.Xét thấy, bị cáo Hà Kim C có nhân thân xấu, năm 2012 bị Tòa án nhân dân huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ xử phạt 24 tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản", bị cáo đã chấp hành xong và được xóa án tích. Ngoài ra, trước khi thực hiện hành vi phạm tội trong vụ án này, ngày 06/3/2018 bị cáo đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản tại thôn NT, xã TH, huyện BG, tỉnh Lạng Sơn; Ngày 05/9/2018 trộm cắp tại thôn NH, xã TT, huyện BQ, tỉnh Hà Giang. Ngày 09/5/2019 tại Bản án số 09/2019/HSST của Tòa án nhân dân huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn xử phạt bị cáo 30 (Ba mươi) tháng tù, về tội "Trộm cắp tài sản", tổng hợp hình phạt của bản án số 01/2019/HSST ngày 09/01/2019 của Tòa án nhân dân huyện Quang Bình, tỉnh Hà Giang là 30 tháng tù. Hình phạt chung bị cáo Hà Kim C phải chịu 05 năm tù thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam 20/9/2018. Ngày 15/5/2019 tại Bản án số 21/2019/HSST của Tòa án nhân dân huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang xử phạt bị cáo 02 (hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo thi hành án phạt tù. Mặc dù Bản án của Tòa án nhân dân huyện Quang Bình, tỉnh Hà Giang đã có hiệu lực pháp luật, nhưng đó là hành vi phạm tội sau,bị cáo thực hiện hành vi phạm tội vào ngày (10/9/2018) được đưa ra xét xử trước, còn hành vi phạm tội trước tại huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn và huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang mới được đưa ra xét xử vào ngày 09/5/2019 và ngày 15/5/2019 và tại bản án huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn đã tổng hợp hình phạt tù. Hiện nay, hai Bản án trên chưa có hiệu lực pháp luật, nên Hội đồng xét xử không áp dụng tình tiết tái phạm đối với bị cáo và cũng không tổng hợp hình phạt, nhưng cũng cần phải áp dụng một mức án nghiêm khắc đối với bị cáo Hà Kim C trong vụ án.

Tuy nhiên, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn hối cải, do vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đó là“Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải”; Ngoài ra, bị cáo đã tác động gia đình bồi thường cho bị hại số tiền 10.000.000đ cho bị hại, bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ đó là: "Người phạm tội tự nguyện bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục một phần hậu quả". Do vậy, bị cáo được hưởng haitình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại các điểm s, b khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015sửa đổi, bổ sung năm 2017. Ngoài ra, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, do vậy bị cáo được hưởng thêm 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Đối với Lộc Văn T là đối tượng chủ mưu trong vụ án này, còn bị cáo Hà Kim C phạm tội với vai trò đồng phạm trực tiếp cùng Lộc Văn T thực hiện hành vi phạm tội. Tuy nhiên, Lộc Văn T hiện nay đã bỏ trốn Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Chợ Mới đã ra Quyết định truy nã và đang tạm đình chỉ bị can, khi nào bắt được xử lý sau.

Đối với Lý Văn Q là người có hành vi điều khiển xe ôtô BKS 89K-2605 chở trâu do C và T trộm cắp được của gia đình ông Dương Văn H. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, đã đối chất việc (T và C) thuê Q chở Trâu đi tiêu thụ tại tỉnh Phú Thọ vào ngày (08/9/2018), Cương khai việc thuê Q chở Trâu là do T thuê về giá cả và thời gian địa điểm chở Trâu, C không biết T thuê Q như thế nào, khi C dắt Trâu từ chuồng Trâu của ông H đi khoảng 500m, thì đã thấy T và Q đứng đợi, khi cho Trâu lên xe ô tô là do T và C thực hiện, lúc đó cả hai không nói cho Q biết đó là Trâu trộm cắp mà có, tại phiên tòa sơ thẩm, Q khẳng định chỉ chở trâu thuê cho T, giao dịch với T, nhưng không biết đó là Trâu do T và C trộm cắp. Hiện nay T đã bỏ trốn đang truy nã, nên trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, chưa đủ cơ sở để làm rõ được hành vi đồng phạm của Q đã dùng xe ôtô BKS 89K-2605 để chở trâu trong vụ án trộm cắp này.

Trong vụ án này, Đào Văn P là người bán hộ trâu do bị cáo trộm cắp, Phạm Tuấn N, Hán Văn P là người tiêu thụ tài sản do bị cáo phạm tội mà có. Tuy nhiên, quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã xác định các đương sự nêu trên, khi thực hiện hành vi giúp bán tài sản và tiêu thụ tài sản do bị cáo trộm cắp mà có, đã không biết đó là tài sản trộm cắp và việc mua bán là ngay tình, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn không truy cứu trách nhiệm hình sự, xét thấy là có căn cứ.

[5]Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật hình sự thì người phạm tội có thể bị phạt tiền từ 5.000.000đ đến 50.000.000đ. Tuy nhiên, xét thấy bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập ổn định. Do vậy, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6]Về trách nhiệm dân sự:Trong vụ án này có đối tượng Lộc Văn T cùng với Hà Kim C thực hiện hành vi phạm tội trộm cắp tài sản, nhưng hiện nay T đã bỏ trốn khỏi địa phương, Cơ quan Điều tra đã ra quyết định truy nã và đang tạm đình chỉ bị can, do đó chưa làm rõ được số tiền cụ thể của mỗi người được chia trong vụ án này, nên Hội đồng xét xử không có cơ sở để xác định trách nhiệm liên đới bồi thường dân sự của từng người. Vì vậy, để đảm bảo quyền lợi cho mình, bị cáo C có quyền yêu cầu Lộc Văn T thực hiện nghĩa vụ liên đới bồi thường trách nhiệm dân sự trong vụ án khác theo quy định của pháp luật. Tại phiên tòa sơ thẩm, bị hại Dương Văn H yêu cầu bị cáo phải bồi thường số tiền 22.000.000đ, bao gồm số tiền 20.000.000đ là giá trị con Trâu và 2.000.000đ là tiền công truy tìm Trâu, bị cáo nhất trí bồi thường số tiền trên theo yêu cầu của bị hại, bị cáo đã bồi thường cho bị hại đượcsố tiền 10.000.000đ, số tiền còn lại yêu cầu bị cáo phải bồi thường tiếp.

[7] Vật chứng của vụ án:

- Đối với số tiền 3.000.000đ (Ba triệu đồng) do Lý Văn Q tự nguyện nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn, số tiền này do Quảng nhận chở trâu thuê từ Lộc Văn T, anh Q nhất trí nộp số tiền này để hỗ trợ cho bị cáo bồi thường cho bị hại. Do vậy, cần tạm giữ lại để đảm bảo thi hành án.

- 01 (một) điện thoại di động của bị cáo dùng để liên lạc với T để bàn bạc việc đi trộm cắp Trâu,qua điều tra xác định chiếc điện thoại này C đã đánh rơi mất không thu giữ được, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

- 01 (một) xe ô tô nhãn hiệu KIA, BKS 89K-2605 do Lý Văn Q sử dụng để chở trâu thuê cho Lộc Văn T và Hà Kim C vào ngày (08/9/2018),qua điều tra xác định chiếc xe ô tô này thuộc quyền sở hữu của ông Lý Văn Q (bố đẻ Lý Văn Q),khi Q lấy xe đi chở Trâu thuê ông Q không biết và chiếc xe này đã được xử lý trong vụ án khác, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết là có căn cứ.

- 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại Sirius BKS 20C1-163.52 do Lộc Văn T điều khiển vào ngày (07, 08/9/2018), hiện nay Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Quang Bình, tỉnh Hà Giang đang tạm giữ để xử lý trong một vụ án khác, hiện nay T đang bỏ trốn khi nào bắt được sẽ xử lý sau.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật và án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173; Điều 38; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

1. Tuyên bố bị cáo Hà Kim C phạm tội "Trộm cắp tài sản".

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Hà Kim C 15 (Mười năm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi thi hành án phạt tù.

3. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng các Điều 584, 585, 586 và 589 Bộ luật Dân sự và Điều 46 Bộ luật Hình sự. Buộc bị cáo Hà Kim C phải có trách nhiệm bồi thường số tiền 12.000.000đ (Mười hai triệu đồng) cho bị hại, được trừ số tiền 3.000.000đ (Ba triệu đồng) do Lý Văn Q tự nguyện nộp để hỗ trợ bồi thường cho bị hại (12.000.000đ - 3.000.000đ) = 9.000.000đ. Buộc bị cáo phải bồi thường tiếp số tiền còn lại là 9.000.000đ (Chín triệu đồng) cho bị hại Dương Văn H, sinh năm 1952, trú tại: Thôn LC, xã QC, huyện CM, tỉnh Bắc Kạn.

- Tạm giữ số tiền 3.000.000đ (Ba triệu đồng) do Lý Văn Q tự nguyện nộp Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn theo biên lai số 07549 ngày 13/3/2019,để đảm bảo thi hành án về khoản tiền bồi thường cho bị cáo.

- Việc thi hành án về khoản tiền bồi thường nêu trên được thực hiện theo quy định tại Điều 357 Bộ luật Dân sự.

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Hà Kim C phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng)án phí hình sự sơ thẩm và 450.000đ (Bốn trăm năm mươi nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự; người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng các Điều 331, Điều 333 và Điều 337 của Bộ luật Tố tụng hình sự.Bị cáo, bị hại có mặtcó quyền kháng cáo Bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa (Phạm Tuấn N và Hán Văn P) có quyền kháng cáo Bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

250
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 07/2019/HS-ST ngày 05/06/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:07/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - Bắc Kạn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về