Bản án 07/2019/HS-ST ngày 05/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN K - TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 07/2019/HS-ST NGÀY 05/03/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 05 tháng 3 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện K, Tỉnh NinhBình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 07/2019/HSST ngày 24 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 07/2019/QĐXXST-HS ngày 20/02/2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phạm Văn D, sinh năm 1986 tại xã K, huyện K, tỉnh Ninh Bình. Nơi ĐKHKTT, chỗ ở: xóm 5, xã K, huyện K, tỉnh Ninh Bình; Nghề nghiệp : Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 8/12; dân tộc: kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Phạm Văn V và bà Ngô Thị T; có vợ là Phạm Thị V1 và 02con; tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 24/10/2018 chuyển tạm giam tại trại tạm giam công an tỉnh Ninh Bình từ ngày 25/10/2018 (có mặt).

* Người có quyền lợi, nghĩ a vụ liên quan: ông Phạm Văn V, sinh năm 1964; trú tại xóm 5, xã K, huyện K, tỉnh Ninh Bình (có mặt).

*Người làm chứng: Anh Nguyễn Văn K và anh Dương Văn H (đều vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau :

Phạm Văn D là người sử dụng trái phép chất ma túy từ năm 2016 bằng hình thức chích hê rôin. Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 24/10/2018, D mang theo 01 ống Novocain rồi điều khiển xe mô tô từ nhà đến khu vực nghĩa địa thuộc xóm 4, xã T tìm mua ma túy sử dụng cho bản thân. Tại đây D gặp người đàn ông không quen biết và mua được của người này 01 gói ma túy với giá 200.000đ rồi cầm ở tay phải điều khiển xe đi xuống thị trấn P tìm mua xi lanh để sử dụng. Khi đi đến đoạn đường bờ đê sông Vạc thuộc phố T, thị trấn P thì bị tổ công tác Công an huyện K kiểm tra, phát hiện bắt quả tang thu giữ của bị cáo 01 gói nhỏ được gói ngoài bằng giấy nilong màu đen, 01 ống novocain và xe mô tô BKS 35F9-6887. Kiểm tra bên trong gói nhỏ thu giữ của của bị cáo là chất bột dạng c ục màu trắng, có trọng lượng 0,41gam, ký hiệu M gửi toàn bộ đi giám định.

Bản kết luận giám định số 196/KLGĐ-PC09-MT ngày 25/10/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Ninh Bình kết luận: Mẫu chất bột dạng cục màu trắng gửi tới giám định ký hiệu M có khối lượng 0,4029 gam là chất ma túy, loại hê rôin.

Bản cáo trạng số 07/CT-VKS ngày 22/01/2019 Viện kiểm sát nhân dân huyện K đã truy tố bị cáo Phạm Văn D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát huyện K vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố như nội dung cáo trạng nêu trên và đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo Phạm Văn D phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma tuý ”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 xử phạt bị cáo Phạm Văn D từ 16 đến 19 tháng tù. Áp dụng các quy định của pháp luật để xử lý vật chứng đã thu giữ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên toà hôm nay bị cáo Phạm Văn D hoàn toàn thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng đã nêu. Bị cáo khai nhận bản thân sử dụng ma tuý từ năm 2016 bằng hình thức chích hê rôin. Đầu giờ chiều ngày 24/10/2018 sẵn có 200.000đ và muốn sử dụng ma túy, bị cáo mang theo 01 ống novocain và đi xe mô tô đến khu vực nghĩa địa thuộc xóm 4, xã T tìm mua ma túy để sử dụng, tại đây bị cáo gặp một người thanh niên không quen biết khoảng 30 tuổi, đoán là người nghiện ma túy nên đã hỏi và mua được của người đó 01 gói hêrôin với giá 200.000đ, bị cáo cầm trong lòng bàn tay phải rồi đi xe mô tô xuống thị trấn P mua xi lanh để sử dụng, khi đi hết đê sông Vạc tới sát đường 10 cũ thì bị công an huyện K dừng xe kiểm tra giấy tờ và phát hiện bị cáo đang cầm gói ma túy trên tay, bị cáo đã tự giác giao nộp gói hê rôin cùng 01 ống novocain cho cơ quan Công an và khai nhận đó là gói hê rôin bị cáo vừa mua nhằm mục đích để sử dụng cho bản thân.

Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của những ngư ời làm chứng, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ như biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản thu giữ và niêm phong vật chứng, biên bản cân xác định t rọng lượng, lấy mẫu giám định, kết luận giám định gói bột thu giữ của bị cáo.

Như vậy đã có đủ cơ sở kết luận với hành vi cất giấu trong người 0,4029gam Hêrôin nhằm mục đích sử dụng, bị cáo Phạm Văn D đã phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma tuý ” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015.

[2] Hành vi phạm tội của bị cáo mang tính chất nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, bản thân bị cáo biết rõ tác hại của ma túy đối với sức khỏe con người và biết rõ nhà nước có những quy định xử lý nghiêm khắc đối với những người có hành vi liên quan đến ma túy như ng bị cáo vẫn thực hiện hành vi đi mua hêrôin tàng trữ để sử dụng cho bản thân, vì vậy cần phải xử lý nghiêm đối với bị cáo trư ớc pháp luật, buộc bị cáo phải cách ly xã hội một thời gian tương xứng với hành vi mà bị cáo đã thực hiện để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người công dân có ích cho gia đình và xã hội.

[3] Khi lượng hình cũng cần xem xét đến việc bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, đã tự giác giao nộp gói hêrôin cho cơ quan Công an; quá trình giải quyết vụ án bị cáo khai báo thành khẩn, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015.

[4] Về nguồn gốc Hêrôin: Bị cáo khai mua của một ngư ời thanh niên khoảng 30 tuổi ở khu vực nghĩa địa xã T, bị cáo không quen biết ngư ời đó, có gặp lại cũng không nhận dạng được vì vậy cơ quan điều tra Công an huyện K không đủ cơ sở để điều tra.

[5] Về xử lý vật chứng: Chiếc xe mô tô BKS 35F9-6887 bị cáo dùng làm phương tiện đi mua hê rôin, qua điều tra xác định chiếc xe trên là của ông Phạm Văn V, bố đẻ bị cáo, cơ quan điều tra công an huyện K đã trả lại cho ông V. Số vật chứng sau khi giám định còn lại là 01 phong bì niêm phong ghi số 196/2018/GĐMT trên giáp lai có chữ ký của bên giao bên nhận và đóng dấu của phòng ký thuật hình sự, bên trong có chứa vật chứng còn lại và vỏ bao gói niêm phong ban đầu; 01 phong bì niêm phong, trên phong bì có dấu niêm phong và chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong, bên trong có vỏ gói ngoài gói nhỏ ma túy là giấy nilong màu đen và giấy trắng, vỏ phong bì niêm phong gói nhỏ khi thu giữ vật chứng từ bị cáo; 01 phong bì niêm phong, trên phong bì có dấu niêm phong và chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong, bên trong có 01 ống novocain 3% chưa sử dụng, đây là những vật không còn giá trị sử dụng, vật nhà nước cấm lưu hành, vì vậy cần tịch thu tiêu huỷ.

[6] Về án phí: Bị cáo Phạm Văn D phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án, Điều tra viên và Kiểm sát viên đã thực hiện hành vi tố tụng hoàn toàn hợp pháp theo đúng quy định của pháp luật.

Vì lẽ trên :

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Phạm Văn D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015. Xử phạt bị cáo Phạm Văn D 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ bị cáo là ngày 24/10/2018.

Áp dụng Điều 47 BLHS; Căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu cho tiêu hủy 01 phong bì niêm phong ghi số 196/2018/GĐMT trên giáp lai có chữ ký của bên giao bên nhận và đóng dấu của phòng ký thuật hình sự, bên trong có chứa vật chứng còn lại và vỏ bao gói niêm phong ban đầu; 01 phong bì niêm phong, trên phong bì có dấu niêm phong và chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong, bên trong có vỏ gói ngoài gói nhỏ ma túy là giấy nilong màu đen và giấy trắng, vỏ phong bì niêm phong gói nhỏ khi thu giữ vật chứng từ bị c áo; 01 phong bì niêm phong, trên phong bì có dấu niêm phong và chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong, bên trong có 01 ống novocain 3% chưa sử dụng.

Căn cứ Điều 136 BLTTHS năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, buộc bị cáo Phạm Văn D phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thực hiện theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Án xử sơ thẩm công khai, bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

208
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 07/2019/HS-ST ngày 05/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:07/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kim Sơn - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về