Bản án 07/2018/HS-ST ngày 12/01/2018 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 07/2018/HS-ST NGÀY 12/01/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 12 tháng 01 năm 2018 tại Tòa án nhân dân thành phố Nam Định, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 407/2017/TLST-HS ngày 29 tháng 12 năm 2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử 407/2018/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 01 năm 2018, đối với bị cáo:

Họ tên: Nguyễn Minh H - sinh năm 1994 tại thành phố Đ, tỉnh Nam Định; nơi cư trú: Tổ 7, khu 3, phường H, thành phố L, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: Không nghề nghiệp; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn D và bà: Lê Thị G; có vợ: Nguyễn Thị N, chưa có con; tiền án: Không; tiền sự: Ngày 17-10-2017 bị Công an thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh xử phạt hành chính về hành vi “Tàng trữ công cụ nhằm gây thương tích”; bị cáo ra đầu thú và bị tạm giữ từ ngày 07-11-2017, sau đó chuyển tạm giam từ ngày 13-11-2017 cho đến nay tại Nhà tạm giữ - Công an thành phố Nam Định; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người bị hại: Ông Phạm Đình C, sinh năm 1953; nơi cư trú: Số 2A đường T, phường Q, thành phố Đ, tỉnh Nam Định. Ông C vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dungvụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ ngày 05-11-2017, Nguyễn Minh H đi bộ lang thang mục đích tìm tài sản sơ hở để trộm cắp. Khi đi đến khu vực số nhà 2A đường T, phường Q, thành phố Đ, H phát hiện ông Phạm Đình C, sinh năm 1953 (chủ nhà) có dựng chiếc xe máy hiệu WAVE RS BKS: 30H2-7883 trước cửa nhà, xe không khóa, không có người trông coi. H đi đến dùng tay trái nắm vào tay lái bên trái của xe, tay phải cầm vào đuôi xe rồi quay đầu xe, dắt xe xuống lòng đường. Sau đó, H ngồi lên yên xe, dùng chân đẩy xe hướng ra đường P - H, phường Q, thành phố Đ. Khi đi đến khu vực chợ T, H tháo BKS: 30H2-7883 của chiếc xe máy vừa trộm cắp được vất lại ven đường. Sau đó, H tiếp tục dắt chiếc xe máy trên đến nhà bạn là anh Nguyễn Viết A, sinh năm 1983, trú tại: Số 371 đường T, phường T, thành phố Đ. Tại đây H nói với anh A muốn cầm cố chiếc xe máy trên nhưng anh A không đồng ý và cho H số điện thoại của Phạm Thanh T, sinh năm 1987, trú tại: Số 1/56/178 đường K, phường T, thành phố Đ (là bạn của A). Sau đó, H và T liên lạc qua điện thoại và hẹn gặp nhau tại nhà A để thỏa thuận việc cầm cố xe. Khi T đến xem xe, H nói là xe của em mình và cầm cố cho T với số tiền 1.500.000 đồng. Do H đang nợ A số tiền 1.500.000 đồng nên H bảo T trả luôn số tiền cầm cố xe trên cho A để trừ nợ. T đồng ý nhưng chưa chuyển tiền cho A luôn và mang chiếc xe máy trên về nhà cất giữ.

Ngày 07-11-2017, Nguyễn Minh H đã đến Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Nam Định đầu thú. Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Nam Định đã thu giữ của Phạm Thanh T chiếc xe máy là vật chứng của vụ án Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Nam Định xác định: Chiếc xe máy WAVE RS là vật chứng của vụ án trị giá 6.000.000 đồng (sáu triệu đồng). Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe máy cho ông Phạm Đình C. Ông C đã nhận lại tài sản và không có đề nghị gì khác.

Tại Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thành phố Nam Định và tại phiên tòa, Nguyễn Minh H đã khai nhận toàn bộ hành vi như đã nêu trên.

Bản cáo trạng số 14/QĐ-KSĐT ngày 29-12-2017 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định truy tố bị cáo Nguyễn Minh H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 của Bộ luật Hình sự 1999.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo Nguyễn Minh H tại phiên tòa thể hiện hành vi của bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”. Do đó Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo toàn bộ nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Minh H phạm tội “Trộm cắp tài sản”; Áp dụng khoản 1 Điều 138, điểm p khoản 1 và khoản 2 Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 1999: xử phạt bị cáo Nguyễn Minh H từ 06 tháng tù đến 09 tháng tù.Bị cáo Nguyễn Minh H nói lời sau cùng: Xin Hội đồng giảm nhẹ hình phạt

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy nhưsau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Nam Định, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Minh H không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Minh H phù hợp với các tài liệu, chứng cứ của vụ án nên có đủ cơ sở xác định: Vào khoảng 17 giờ ngày 05-11-2017 Nguyễn Minh H đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 chiếc xe máy WAVE RS BKS: 30H2-7883 trị giá 6.000.000 đồng của ông Phạm Đình C tại khu vực trước cửa số nhà 2A đường T, phường Q, thành phố Đ. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ và bị pháp luật nghiêm cấm nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Tài sản bị chiếm đoạt có tổng trị giá 6.000.000 đồng đồng. Như vậy hành vi của bị cáo đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999.

[3] Về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Về các tình tiết giảm nhẹ: Sau khi thực hiện tội phạm bị cáo đã ra đầu thú, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo Nguyễn Minh H đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình; tài sản bị cáo chiếm đoạt đã được thu hồi trả lại cho người bị hại. Do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm p khoản 1 và khoản 2 Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 1999.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[4] Về hình phạt: Xét bị cáo là đối tượng có nhân thân xấu, đã có 01 tiền sự bị xử lý vi phạm hành chính nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng rèn luyện mà tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội thể hiện bản chất coi thường pháp luật. Tuy nhiên, bị cáo được áp dụng nhiều tình tiết giảm nhẹ nên Hội đồng xét xử thấy cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn để xử phạt bị cáo nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Tài sản bị cáo chiếm đoạt đã thu hồi trả lại người bị hại, ông Phạm Đình C đã nhận lại tài sản và không có đề nghị gì khác nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[6] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Minh H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Minh H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 138, điểm p khoản 1 và khoản 2 Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 1999.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh H 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 07-11-2017.

2. Án phí:

Áp dụng Điều 135 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016.

Bị cáo Nguyễn Minh H phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

3. Quyền kháng cáo:

Bị cáo Nguyễn Minh H được quyền làm đơn kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại là ông Phạm Đình C được quyền làm đơn kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ bản án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

207
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 07/2018/HS-ST ngày 12/01/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:07/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về