Bản án 07/2018/HNGĐ-ST ngày 04/04/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN K, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 07/2018/HNGĐ-ST NGÀY 04/04/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG KHI LY HÔN

Ngày 04 tháng 04 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Ninh Bình xét xử công khai vụ án thụ lý số 120/2017/TLST - HNGĐ ngày 15 tháng 12 năm 2017 về tranh chấp ly hôn theo Quyết đ ịnh đưa vụ án ra xét xử số 04/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 20 tháng 03 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Lưu Văn Đ, sinh năm 1981; Cư trú tại: xóm H, xã V,huyện K, tỉnh Ninh Bình. Có mặt

- Bị đơn: Chị Trần Thị L, sinh năm 1979; Cư trú tại xóm 3, xã Đ, huyện K,

tỉnh Ninh Bình. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Anh Lưu Văn Đ và chị Trần Thị L kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn tại UBND xã Đ ngày 05/01/2011; sau khi kết hôn vợ chồng sống tại xóm H, xã V, huyện K sau một thời gian sống hạnh phúc thì phát sinh mâu thuẫn; do mâu thuẫn vợ chồng đến năm 2015 chị L về nhà mẹ đẻ về xóm 3, xã Đ, huyện K sống ly thân với anh Đ từ đó đến nay.

Nguyên đơn anh Lưu Văn Đ cho rằng nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm lối sống mâu thuẫn này đã kéo dài nhiều năm, mặc dùvợ chồng đã cố gắng tìm cách khắc phục và đã được hai bên gia đình hai bên khuyên giải nhưng không cải thiện được nên vợ chồng anh đã sống ly thân. Nay tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn không khắc phục được anh yêu cầu giải quyết ly hôn giải phóng cho cả hai.

Bị đơn chị Trần Thị L thì lại xác định nguyên nhân mâu thuẫn xuất phát từ việc anh Đ chơi bời, cờ bạc, quan hệ bất chính nên mới xảy ra mâu thuẫn vợ chồng và từ mâu thuẫn vợ chồng đã dẫn đến mâu thuẫn giữa chị với gia đình nhà chồng; mâu thuẫn không giải quyết được nên hai bên đã sống ly thân từ năm 2015 đến nay. Chị cũng xác định chị và anh Đ không sống chung được với nhau nữa nhưng chị không đồng ý ly hôn; yêu cầu giữ nguyên tình trạng sống ly thân, không ly hôn vì con chung cần có cha và mẹ. Trường hợp phải ly hôn thì yêu cầu anh Đ phải bồi thường tuổ i thanh xuân cho chị.

Về con chung: vợ chồng anh Đ và chị L đều xác định chỉ có 2 con chung là Lưu Ngọc L sinh ngày 20/11/2001 và Lưu Khô i N sinh ngày 23/5/2009 hiện đang do chị L nuô i dưỡng. Khi ly hôn ban đầu anh Đ yêu cầu được nuôi cả hai con chung nhưng sau đó nhường quyền nuô i con cho chị L đề nghị đóng góp tiền nuô i con cho chị L mỗ i tháng là 3.000.000 đồng/ cho hai cháu ( 1.500.000đ/ cháu/ tháng). Chị L cũng có yêu cầu được nuôi cả hai con chung nếu vợ chồng ly hôn và đồng ý với mức đóng góp cấp dưỡng nuôi con chung do anh Đ đưa ra nhưng yêu cầu anh Đ phải đóng góp 01 lần tiền nuô i 2 con chung từ 01 tuổi cho đến khi 18 tuổi là 684.000.000 đồng.

Con chung của hai anh chị là các cháu Lưu Ngọc L và Lưu Khôi N khi được hỏi ý kiến đều có mong muốn được ở với mẹ khi bố mẹ ly hôn.

Quan điểm của đại d iện Viện kiểm sát nhân dân huyện K: Về tố tụng ngườitham gia tố tụng và những người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng Dân sự. Về nộ i dung: đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Đ iều 56,81, 82, 83 Luật Hôn nhân gia đình; Điều 147 BLTTDS; Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14. Xử ly hôn giữa anh Lưu Văn Đ và chị Trần Thị L; giao chị L trực tiếp nuô i con chung; anh Đ phải đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung với chị L mỗ i tháng là 3.000.000 đồng/ cho hai cháu ( 1.500.000đ/ cháu/ tháng); không chấp nhận yêu cầu đòi bồi thường tuổ i thanh xu ân cũng như yêu cầu buộc anh Đ phải đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con 01 lần của chị L; anh Đ phải nộp 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm và 300.000đ án phí cấp dưỡng nuôi con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài

liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền giải quyết: anh Anh Lưu Văn Đ khởi kiện yêu cầu giảiquyết việc ly hôn và tranh chấp nuôi con chung khi ly hôn với chị Trần Thị L cư trú tại xóm 3, xã Đ, huyện K, tỉnh Ninh Bình; căn cứ quy định tại đ iều 26 và 39BLTTDS vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND huyện K.

[2] Anh Lưu Văn Đ và chị Trần Thị L kết hôn tự nguyện, đăng ký kết hôn ngày 05/01/2001 tại UBND xã Đ; sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc một thời gian thì mới phát sinh mâu thuẫn; do mâu thuẫn vợ chồng đến năm 2015 chị L về xóm 3, xã Đ, huyện K sống ly thân với anh Đ. Tuy nguyên nhân diễn biến mâu thuẫn dẫn đến việc sống ly thân hai bên trình bày khác biệt nhau nhưng trong quá trình giải quyết và tại phiên tòa hai bên đều xác định vì mâu thuẫn vợ chồng không giải quyết được dẫn đến tình cảm vợ chồng không còn nên hiện nay không thể chung sống cùng nhau được nữa. Xác minh tình trạng hôn nhân của chị L và anh Đ tại UBND xã Đ là nơi chị L cư trú thì chính quyền đ ịa phương xác nhận từ đầu năm 2015 do mâu thuẫn vợ chồng chị L và các con đã chuyển hộ khẩu thường trú từ xã V về xã Đ từ năm 2015 đến nay.

[3] Như vậy tuy nguyên nhân mâu thuẫn các bên trình bày khác nhau nhưngđều xác định vì mâu thuẫn vợ chồng không giải quyết được hai bên đã ly thân từ năm 2015 đến nay không còn quan tâm gì đến nhau nữa. Việc chị L xác định vợ chồng không thể chung sống cùng nhau được vì mâu thuẫn đã trầm trọng nhưng yêu cầu duy trì tình trạng ly thân và chỉ chấp nhận ly hôn khi được đền bù tuổi thanh xuân là không có căn cứ và hạn chế quyền định đoạt cuộc sống của công dân. Từ những căn cứ đó đã có đủ cơ sở xác định tình trạng hôn nhân của anh Đ và L hiện nay đã trầm trọng, không còn khả năng khắc phục, mục đích hôn nhân không đạt được, không thể duy trì cuộc sống chung; căn cứ quy định tại Đ iều 51, 56 Luật Hôn nhân gia đình yêu cầu của anh Đ ly hôn chị L là có căn cứ được chấp nhận.

[4] Vợ chồng anh Đ và chị L có 2 con chung là Lưu Ngọc L sinh ngày 20/11/2001 và Lưu Khô i N s inh ngày 23/5/2009 hiện đang do chị L nuôi dưỡng; chị L yêu cầu được nuôi cả hai con chung nếu vợ chồng ly hôn; anh Đ cũng đồng ý để chị L trực tiếp nuô i cả hai con chung khi vợ chồng ly hôn; con chung của hai anh chị là các cháu Lưu Ngọc L và Lưu Khôi N khi được hỏi ý kiến đều có mong muốn được ở với mẹ khi bố mẹ ly hôn; căn cứ Điều 81 luật HNGĐ việc giao cả hai con cho chị L nuôi dưỡng là phù hợp.

[5] Về cấp dưỡng nuôi con chung, anh Đ đề xuất mức cấp dưỡng nuôi con chung với chị L mỗi tháng là 3.000.000 đồng/ 02 con/tháng ( 1.500.000đ/ cháu/ tháng), hiện tại anh Đ là lao động phổ thông tự do thu nhập khoảng 5 triệu đồng /tháng; so với thực tế thu nhập lao động tự do tại đ ịa phương thì mức đóng củaanh Đ đưa ra là phù hợp; căn cứ khoản 2, Điều 82 LHNGĐ mức đóng góp này được chấp nhận.

[6] Đối với yêu cầu của chị L buộc anh Đ phải đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con một lần cho cả hai con chung từ khi 01 tuổ i đến khi con chung 18 tuổi là 684.000.000 đồng thì anh Đ xác định không có điều kiện thực hiện, mặt khác chị Lcũng không có căn cứ chứng minh thu nhập thực tế của anh Đ cụ thể hiện nay như thế nào có thể thực hiện yêu cầu đó hay không; theo quy định tại Đ iều 282 BLDS trách nhiệm này có thể thực hiện theo định kỳ nên yêu cầu của chị không được chấp nhận.

[7] Về tài sản chung: Khi ly hôn hai bên đương sự không yêu cầu tòa án giải quyết nên Hộ i đồng xét xử không xem xét.

[8] Về án phí: căn cứ quy định tại đ iều 147 BLTTDSS và Nghị quyết 326/2016/NQUBTVQH14 buộc anh Đ phải nộp toàn bộ án phí ly hôn và án phí cấp dưỡng nuôi con theo quy định .

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 51, 56, 81, 82 và 83 Luật HNGĐ; Điều 282 BLDS; Điều 147 Bộ luật TTDS và Nghị quyết 326/2016/NQUBTVQH14 quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

1/ Xử ly hôn giữa anh Lưu Văn Đ và chị Trần Thị L.

2/ Giao chị Trần Thị L trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc giáo dục cả hai con chung là Lưu Ngọc L sinh ngày 20/11/2001 và Lưu Khôi N s inh ngày 23/5/2009 đến khi thành niên. Không bên nào được cản trở quyền thăm nom chăm sóc conchung.

3/ Anh Lưu Văn Đ đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung với chị L 3.000.000 đồng/ 02 con/tháng . Cụ thể: cháu Lưu Ngọc L 1.500.000đ/tháng kể từ tháng 04/2018 cho đến khi thành niên; cháu Lưu Khôi N 1.500.000đ/tháng kể từ tháng 04/2018 cho đến khi thành niên.

4/ Bác yêu cầu của chị L buộc anh Đ phải đóng góp tiền cấp dưỡng nuô i con một lần cho cả hai con chung từ 01 tuổ i đến khi con chung thành niên.

5/ Anh Lưu Văn Đ phải nộp 300.000đ án phí ly hôn và 300.000đ án phí cấp dưỡng nuôi con, được khấu trừ vào số tiền 300.000đ tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số AA 2759 ngày 15/12/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện K. Còn phải nộp tiếp 300.000đ .

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và người được thi hành án có đơn yêu cầu cho đến khi thi hành án xong các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền phải thi hành tương ứng với thời gian chưa thi hành án theo mức lãi xuất quy định tại Đ iều 357 và Điều 46 8 Bộ luật Dân sự.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Đ iều 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại đ iều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử sơ thẩm công khai các đương sự có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

232
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 07/2018/HNGĐ-ST ngày 04/04/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung khi ly hôn

Số hiệu:07/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Khánh - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 04/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về