Bản án 07/2017/HSST ngày 26/09/2017 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ QUÝ, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 07/2017/HSST NGÀY 26/09/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 9 năm 2017 tại Hội trường UBND xã Long Hải, huyện Phú Quý, tỉnh Bình Thuận xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 07/2017/HSST, ngày 28 tháng 8 năm 2017 đối bị cáo:

Nguyễn Huệ P (tên thường gọi: C) - Sinh năm: 1995; Nơi đăng ký HKTT và trú tại: Thôn M, xã T, huyện Phú Quý, tỉnh Bình Thuận; Nghề nghiệp: Không ổn định; Trình độ học vấn: 6/12; con ông: Không rõ và bà Nguyễn Thị T; vợ, con: Không; Tiền sự: Không; tiền án: 01 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án hình sự sơ thẩm số 07 ngày 30/10/2015 của Tòa án nhân dân huyện Phú Quý. Ngày 12/01/2016 chấp hành xong án phạt tù trở về địa phương. Đến nay, chưa được xóa án tích.

Bị cáo tại ngoại, có mặt tại tòa.

* Người bị hại:

1/ Nguyễn Thị Hồng H – Sinh năm: 1981 (có mặt)

2/ Nguyễn Thị Thu T - Sinh năm: 2001 (có mặt)

3/ Nguyễn Quốc B – Sinh năm: 1997 (có đơn xin xét xứ vắng mặt) Cùng trú tại: Thôn Q, xã L, huyện Phú Quý, tỉnh Bình Thuận.

* Người đại diện hợp pháp cho bị hại Thuỷ:

Chị Nguyễn Thị Hồng H – Sinh năm: 1981 là mẹ ruột (có mặt)

Trú tại: Thôn Q, xã L, huyện Phú Quý, tỉnh Bình Thuận.

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1/ Nguyễn Thị T – Sinh năm: 1993 (vắng mặt)

Trú tại: Thôn Q, xã L, huyện Phú Quý, tỉnh Bình Thuận.

2/ Nguyễn Thị T – Sinh năm: 1978 (có đơn xin xét xứ vắng mặt) Trú tại: Thôn M, xã T, huyện Phú Quý, tỉnh Bình Thuận.

3/ Nguyễn Minh K (tên gọi khác: T) – Sinh năm: 1999 (vắng mặt) Trú tại: Thôn Q, xã N, huyện Phú Quý, tỉnh Bình Thuận.

NHẬN THẤY

Bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Quý, tỉnh Bình Thuận truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Vào khoảng 00 giờ tối ngày 24/8/2016 Nguyễn Huệ P, trú tại: thôn M, xã T, huyện Phú Quý nảy sinh ý định đi trộm cắp tài sản. Nguyễn Huệ P điều khiển xe mô tô hiệu Wave, màu đen, biển số 59Y1-31.545 đến đường Lê Hồng Phong thuộc thôn Q, xã L dừng xe ở đó. Nguyễn Huệ P đi bộ để tìm nhà nào sơ hở thì đột nhập vào trộm cắp tài sản. P nhìn thấy cửa sổ bên hông nhà bà Nguyễn Thị Hồng H hé mở. P vào nền đất bên hông nhà bà H rút cây gậy 03 khúc ở túi quần ra để dưới ghế nhựa; P đi đến bên cửa sổ dùng hai tay tháo 01 cánh cửa sổ ra ngoài, P lấy 01 cái mũ đang đội trên đầu xuống đặt trên tường thành gần cửa sổ để khỏi bị vướng. Nguyễn Huệ P đưa hai chân vào trước để vào bên trong phòng thứ nhất thấy tài sản nhưng không lấy; P đến phòng thứ hai lấy 01 điện thoại Iphone 4 màu trắng; sang phòng thứ ba lấy 01 điện thoại Motorola màu đen, 01 điện thoại Sky màu trắng; rồi đi về lại phòng thứ nhất lấy 01 máy tính hiệu Vizio màu trắng xám, 01 điện thoại Iphone 5s màu vàng, 01 điện thoại Nokia 1280 màu xanh và 01 máy tính HP màu đen. Những điện thoại P lấy được bỏ vào túi quần còn 02 máy tính P cầm trên tay và thoát ra bên ngoài theo lối đột nhập vào. Khi ra ngoài, P để 01 máy tính HP trên ghế nhựa rồi lấy 03 cái áo khoát treo ở vách tường, phía trên ghế nhựa quấn lấy máy tính Vizio đang cầm trên tay thì nghe tiến động P liền bỏ đi. P bỏ lại 01 máy tính HP màu đen, 01 cây gậy 03 khúc và 01 mũ lưỡi trai màu đen. P đi đến ngã 03 dốc đá gần nhà anh Nguyễn Minh H ở thôn Q để kiểm tra tài sản rồi bỏ lại 03 cái áo khoát. P mang những tài sản lấy được về phía sau nhà Đỗ Tấn T cất giấu rồi vào nhà T ngủ mà không ai biết. Sau đó, Nguyễn Huệ P mang những tài sản trộm cắp được vào Thành phố Phan Thiết bán lấy tiền tiêu xài cá nhân hết. Riêng 02 chiếc điện thoại Nokia 1280 và Motorola P bỏ ở đâu không nhớ. Đến khoảng 03 giờ sáng ngày 24/8/2016 bà Nguyễn Thị Hồng H cùng các con thức dậy phát hiện kẻ gian đột nhập vào nhà trộm cắp tài sản đã trình báo cho Công an.

Quá trình điều tra, qua thực nghiệm lại vụ án tại nhà bị hại, tại nơi bỏ 3 cái áo khoát, nhận dạng đối với 01 cây gậy 03 khúc, xác định được hành vi trộm cắp tài sản của Nguyễn Huệ P đúng theo lời khai nhận về diễn biến phạm tội, phù hợp với tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Căn cứ Bản kết luận định giá tài sản ngày 06/10/2016 của Hội đồng định giá tài sản kết luận giá trị tài sản Nguyễn Huệ P chiếm đoạt gồm 01 điện thoại Iphone 5S, 01 điện thoại Iphone 4, 01 điện thoại Sky, 01 điện thoại Motorola, 01 điện thoại Nokia 1280, 01 máy tính Vizio và 01 máy tính HP có tổng giá trị là 7.980.000đồng.

Vật chứng vụ án: Cơ quan điều tra Công an huyện Phú Qúy, tỉnh Bình Thuận đã xử lý vật chứng trả lại cho chủ sở hữu. Riêng đối với vật chứng liên quan trong vụ án gồm 01 cây gậy 03 khúc, 01 mũ lưỡi trai màu đen. Hiện Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Phú Quý đang tạm giữ, quản lý theo quy định.

Về dân sự: Bị hại Nguyễn Thị Hồng H, Nguyễn Quốc B và Nguyễn Thị Thu T yêu cầu bị cáo Nguyễn Huệ P bồi thường với tổng số tiền là 7.530.000 đồng. Vào ngày 22/9/2017, Nguyễn Huệ P đã bồi thường cho những người bị hại 2.500.000 đồng, còn lại 5.030.000 đồng những người bị hại yêu cầu bị cáo phải bồi thường.

Tại bản cáo trạng số: 08/QĐ/KSĐT/VKS-HS ngày 28 tháng 8 năm 2017 Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Quý, tỉnh Bình Thuận đã truy tố Nguyễn Huệ P về tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 01 Điều 138 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Quý, tỉnh Bình Thuận thực hành quyền công tố phân tích hành vi phạm tội của bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo; đồng thời đề nghị HĐXX áp dụng khoản01 Điều 138 Bộ luật hình sự; điểm b, p khoản 01, 02 Điều 46; điểm g khoản 01 Điều 48 Bộ luật hình sự; xử phạt: Bị cáo Nguyễn Huệ P từ 09 đến 12 tháng tù.

Bị cáo Nguyễn Huệ P không trình bày lời bào chữa cũng như không có ý kiến về lời luận tội của Kiểm sát viên; đồng thời thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội và đồng ý với quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Qúy, tỉnh Bình Thuận nhưng xin được giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác,

XÉT THẤY

Tại phiên toà, bị cáo Nguyễn Huệ P khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu ở trên, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại và các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ. Các chứng cứ đó phù hợp với nhau về thời gian, địa điểm, hành vi, nên đủ cở sở kết luận:

Vào khoảng 00 giờ tối ngày 24/8/2016 lợi dụng sự sơ hở, lúc cả nhà ngủ say; Nguyễn Huệ P đã dùng tay tháo 01 cánh cửa sổ phòng ngủ ra, rồi lén lút đột nhập vào bên trong nhà bà Nguyễn Thị Hồng H trộm cắp tài sản gồm: 01 điện thoại Iphone 5s, 01 điện thoại Iphone 4, 01 điện thoại Sky, 01 điện thoại Motorola, 01 điện thoại Nokia 1280, 01 máy tính Vizio và 01 máy tính HP thuộc sở hữu của bà H cùng 02 con là Nguyễn Thị Thu T và Nguyễn Quốc B. Tổng giá trị tài sản bị trộm là 7.980.000 đồng.

Hành vi của bị cáo Nguyễn Huệ P đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại khoản 01 Điều 138 Bộ luật hình sự như viện dẫn của Viện kiểm sát truy tố là đúng người, đúng tội.

Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo cho thấy bị cáo đang trong độ tuổi lao động, có nhận thức nhất định về mặt pháp luật, lẽ ra bị cáo phải biết lao động chân chính để tạo ra của cải vật chất để nuôi sống bản thân, giúp ích cho gia đình và xã hội. Thế nhưng do muốn có tiền tiêu xài mà không phải lao động nặng nhọc nên bị cáo đã lợi dụng đêm khuya, lén lút chiếm đoạt tài sản của chủ sở hữu bất chấp hành vi đó là vi phạm pháp luật. Việc đưa ra xét xử và tuyên cho bị cáo một mức hình phạt tương xứng là việc làm cần thiết vừa răn đe giáo dục bị cáo vừa phòng ngừa chung trong xã hội.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo có 01 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản”, chưa được xóa án tích mà tiếp tục phạm tội mới. Nên bị cáo bị áp dụng tình tiết tăng nặng là “tái phạm” quy định tại điểm g khoản 01 Điều 48 Bộ luật hình sự.

Bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ như: Thành khẩn khai báo, tác động gia đình tìm mọi cách bồi thường 1 phần thiệt hại nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, p khoản 01 Điều 46 Bộ luật hình sự.

Trên cơ sở cân nhắc các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự có xem xét nhân thân của bị cáo, xét thấy hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, nhân thân của bị cáo xấu nên cần cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian là cần thiết.

Vật chứng của vụ án:

Đối với 01 cây gậy 03 khúc, 01 mũ lưỡi trai màu đen của bị cáo Nguyễn Huệ P sử dụng trong quá trình đi trộm cắp tài sản. Đây là công cụ bị cáo sử dụng trong quá trình phạm tội và không còn giá trị nên tịch thu tiêu hủy.

Về phần dân sự: Tại phiên toà, những người bị hại Nguyễn Thị Hồng H, Nguyễn Thị Thu T và Nguyễn Quốc B (có đơn xin xét xử vắng mặt) yêu cầu bị cáo Nguyễn Huệ P bồi thường số tiền còn lại là 5.030.000 đồng, bị cáo P đồng ý bồi thường. Xét, những người bị hại và bị cáo tự nguyện thoả thuận bồi thường nên Hội đồng xét xử ghi nhận sự thoả thuận này.

Về người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị T vắng mặt tại phiên toà, nhưng trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử chị T không có yêu cầu gì về 03 cái áo khoát do bị cáo P lấy nên Hội đồng xét xử không xét.

Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự và dân sự theo quy định của pháp luật

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

* Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Huệ P phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

* Áp dụng: Khoản 01 Điều 138; điểm b, p khoản 01 Điều 46; điểm g khoản 01 Điều 48 Bộ luật hình sự.

* Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Huệ P 09 (Chín) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt thi hành án.

* Biện pháp tư pháp:

- Áp dụng điểm a khoản 01 Điều 41 Bộ luật hình sự; điểm a, đ khoản 02 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy 01 cây gậy 03 khúc, 01 mũ lưỡi trai màu đen theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 29/8/2017 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Phú Quý và Chi cục thi hành án dân sự huyện Phú Quý, tỉnh Bình Thuận.

- Áp dụng khoản 01 Điều 42 Bộ luật hình sự; các Điều 584, 585, 586, 589 Bộ luật dân sự Ghi nhận sự tự nguyện thoả thuận giữa những người bị hại và bị cáo. Bị cáo Nguyễn Huệ P phải bồi thường thiệt hại cho bà Nguyễn Thị Hồng H, chị Nguyễn Thị Thu T và anh Nguyễn Quốc B với tổng số tiền 5.030.000 đồng (Năm triệu không trăm ba mươi nghìn đồng).

Trường hợp bên phải thi hành án do chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán quy định tại khoản 2 Điều 357 Bộ luật dân sự mà không có thoả thuận lãi suất thì thực hiện quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự được xác định mức lãi suất bằng 50% mức lãi suất quá hạn quy định tại khoản 1 Điều 468 Bộ luật dân sự để trả cho bên được thi hành án tương ứng với thời gian chậm thi hành.

* Về án phí: Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a, c khoản 01 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH về án phí và lệ phí Toà án năm 2016. Buộc bị cáo Nguyễn Huệ P phải nộp là 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và  300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử công khai, bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 26/9/2017). Riêng bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

529
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 07/2017/HSST ngày 26/09/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:07/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Quí - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về