Bản án 06/2020/HS-ST ngày 21/01/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÙ YÊN, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 06/2020/HS-ST NGÀY 21/01/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 01 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 05/2019/TLST-HS ngày 25 tháng 12 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2020/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 01 năm 2020 đối với bị cáo: Vì Văn Ng, sinh ngày 01 tháng 01 năm 1987 tại Phù Yên – Sơn La; nơi cư trú: Bản X, xã Huy Thượng, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Vì Văn Th; con bà: Đinh Thị S; bị cáo có vợ là Nguyễn Thị Y và có 2 con, con lớn sinh năn 2007, con nhỏ sinh năm 2013; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: sử dụng ma túy từ năm 2019; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 31 tháng 10 năm 2019 đến nay, “có mặt”.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: anh Vì Thanh T, sinh năm 1988, nơi cư trú: bản Lềm, xã Huy Tân, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La, “vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 10 giờ 30 phút ngày 31 tháng 10 năm 2019, bị cáo Vì Văn Ng nhận được cuộc gọi điện thoại di động của người đàn ông tên “Tuấn” nhờ Ng đi mua giúp 05 viên ma túy tổng hợp. Bị cáo Ng điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, biển kiểm soát 88H1- 031.50 đến nhà Vì Thanh T hỏi mua được 05 viên ma túy với số tiền 500.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, Ng cầm gói ma túy trên tay rồi điều khiển xe mô tô đi giao ma túy cho “Tuấn”. Trên đường đi, khi đến khu vực bến xe khách huyện Phù Yên thuộc địa phận tiểu khu 8, thị trấn Phù Yên thì bị Công an phát hiện bắt giữ. Vật chứng thu giữ gồm 05 viên nén màu hồng, 01 điện thoại di động và 01 xe mô tô. Cơ quan điều tra tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Ng thu giữ được 01 viên nén màu hồng. Bị cáo khai vào ngày 30 tháng 10 năm 2019, Ng mua của Vì Thanh T 03 viên với giá 300.000 đồng, đã sử dụng hết 02 viên còn 01 viên chưa kịp sử dụng.

Tại biên bản mở niêm phong, cân tịnh và lấy mẫu gửi giám định xác định (Bút lục số 06): Vật chứng thứ nhất thu giữ của Vì Văn Ng gồm 1 gói nilon màu trắng bên trong có 05 viên nén màu hồng có tổng khối lượng là 0,49 gam. Cơ quan điều tra đã lấy toàn bộ 05 viên nén màu hồng (ký hiệu N) gửi giám định.

Gói vật chứng thứ hai thu giữ của bị cáo Ng là 1 viên nén màu hồng có khối lượng là 0,09 gam. Cơ quan điều tra đã lấy toàn bộ 0,09 gam (ký hiệu N1) gửi giám định.

Tại bản Kết luận giám định số 1628 ngày 05 tháng 11 năm 2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La kết luận (Bút lục số 14): Mẫu gửi giám định ký hiệu N, N1 đều là ma túy, loại Methamphetamine; khối lượng của mẫu gửi giám định là N = 0,49 gam; N1 = 0,09 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,58 gam, loại Methamphetamine. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận của Cơ quan điều tra và của Phòng kỹ thuật hình sự nêu trên.

Với những tình tiết như trên, tại Cáo trạng số: 07/CT – VKS - PY ngày 24 tháng 12 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La đã truy tố Vì Văn Ng về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Vì Văn Ng đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Kết thúc việc xét hỏi, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa trình bày luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố. Hành vi của bị cáo Vì Văn Ng đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Vì Văn Ng từ 18 đến 24 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo. Áp dụng điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 47 của Bộ luật hình sự; các điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy nilon gói ma túy, phong bì niêm phong vật chứng khi bắt người phạm tội quả tang. Trả cho anh Vì Thanh T xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, màu trắng đen, biển kiểm soát 88H1- 031.50. Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia - 216 màu xám.

Trong phần đối đáp, bị cáo Vì Văn Ng nhất trí với quyết định truy tố và luận tội của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là anh Vì Thanh T gửi đơn đề nghị được vắng mặt tại phiên tòa. Anh T xác nhận chiếc xe mô tô là tài sản của mình. Anh T cho bị cáo mượn chiếc xe mô tô để sử dụng làm phương tiện đi lại, việc bị cáo tự ý sử dụng làm phương tiện hỏi mua ma túy, anh T không được biết. Anh T đề nghị được nhận lại chiếc xe mô tô nêu trên.

Kết thúc tranh luận, bị cáo nói sau cùng, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ một phần hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Phù Yên, Điều tra viên và Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Yên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng quy định theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Vì Văn Ng khai nhận hành vi cất giữ trái phép Methamphetamine. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng, phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Biên bản thu giữ vật chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Theo tinh thần tiểu mục 3.1, mục 3, phần II của Thông tư liên tịch số: 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 24 tháng 12 năm 2007 của Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp thì “Tàng trữ trái phép chất ma túy là cất giữ, cất giấu bất hợp pháp chất ma túy ở bất cứ nơi nào (như trong nhà, ngoài vườn, chôn dưới đất, để trong vali, cho vào thùng xăng xe, cất giấu trong quần áo, tư trang mặc trên người hoặc theo người…) mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển hay sản xuất trái phép chất ma túy. Thời gian tàng trữ dài hay ngắn không ảnh hưởng đến việc xác định tội này”.

Theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự, quy định thì “Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;”.

Kết quả cân tịnh và giám định vật chứng xác định: Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,58 gam, loại Methamphetamine. Mặc dù bị cáo Ng khai nhận mục đích cất giấu 05 viên ma túy vào ngày 31 tháng 10 năm 2019 là để chuyển cho người đàn ông tên “Tuấn”. Tuy nhiên, không có đủ căn cứ chứng minh việc Tuấn nhờ Ng mua hộ ma túy. Do đó, bị cáo Ng phải chịu trách nhiệm về hành vi cất giữ ma túy của mình. Như vậy, hành vi của Vì Văn Ng đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[3] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; nhân thân người phạm tội và về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, gây nguy hại lớn cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến chính sách quản lý các chất ma túy của Nhà nước, ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội trên địa bàn. Khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo nhận thức được việc “Tàng trữ trái phép chất ma túy” bị pháp luật nghiêm cấm nhưng để thỏa mãn cơn nghiện ma túy, bị cáo đã bất chấp quy định của pháp luật, cố ý phạm tội. Bị cáo Vì Văn Ng là đối tượng có sử dụng ma túy, bản thân làm nghề lao động tự do tại địa phương. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thành khẩn khai báo. Do đó, cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1Điều 51 của Bộ luật hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Trên địa bàn huyện Phù Yên thời gian gần đây tình hình tội phạm, người phạm tội và tệ nạn ma túy diễn biến phức tạp và có chiều hướng gia tăng, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự an toàn xã hội trên địa bàn. Do đó, Hội đồng xét xử cần áp dụng mức hình phạt nghiêm đối với bị cáo, đảm bảo việc giáo dục riêng, phòng ngừa chung. Từ việc đánh giá những căn cứ quyết định hình phạt trên, Hội đồng xét xử thấy cần áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo với mức hình phạt tương xứng với tính chất hành vi phạm tội.

Về hình phạt bổ sung, theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự, quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng,…” do đó bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo làm nghề lao động tự do, thu nhập không ổn định, điều kiện kinh tế gia đình còn khó khăn (bút lục số 63). Do đó, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[4] Về xử lý vật chứng và áp dụng biện pháp tư pháp: Đối với nilon gói ma túy, phong bì niêm phong vật chứng khi bắt người phạm tội quả tang, xác định là vật chứng, vật không có giá trị. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; các điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Hội đồng xét xử cần tịch thu, tiêu hủy theo quy định.

Đi với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia - 216 màu xám của của bị cáo Ng, bị cáo đã sử dụng để liên lạc mua bán ma túy, là công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Hội đồng xét xử cần tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.

Đi với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, màu trắng đen, biển kiểm soát 88H1- 031.50. Xác định là tài sản hợp pháp của anh Vì Thanh T, anh T có cho bị cáo mượn chiếc xe để làm phương tiện đi lại. Bị cáo tự ý sử dụng chiếc xe làm phương tiên đi mua ma túy, anh T không được biết nên không có lỗi trong việc để bị cáo sử dụng chiếc xe vào việc thực hiện hành vi phạm tội. Căn cứ khoản 2 Điều 47 của Bộ luật hình sự, Hội đồng xét xử cần trả lại cho anh T chiếc xe mô tô nêu trên.

Đi với người đàn ông tên “Tuấn” và anh Vì Thanh T, cơ quan điều tra đã tiến hành lấy lời khai, đối chất nhưng cả anh Tuấn và anh T đều không thừa nhận được mua bán ma túy với bị cáo. Ngoài lời khai của bị cáo, không còn chứng cứ nào khác chứng minh hành vi mua bán ma túy của anh Tuấn và anh T. Do đó, Cơ quan điều tra không có đủ căn cứ để xử lý.

Do đến ngày xét xử, thời hạn tạm giam đối với bị cáo đã hết nên Hội đồng xét xử cần tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo việc thi hành án.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ Luật Hình sự;

Căn cứ điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự; các điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ Luật Tố tụng hình sự;

Căn cứ khoản 1, khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội.

1. Tuyên bố: Bị cáo Vì Văn Ng phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo Vì Văn Ng 24 (hai mươi tư) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 31 tháng 10 năm 2019 (ngày bị cáo bị bắt, tạm giữ).

Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

2. Về xử lý vật chứng và áp dụng biện pháp tư pháp: Tịch thu, tiêu hủy nilon gói ma túy và phong bì niêm phong vật chứng khi bắt người phạm tội quả tang (đựng trong phong bì do Công an huyện Phù Yên niêm phong). Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia - 216 màu xám, số IMEL1: 357291081775763, số IMEL 2: 35729108775771 của bị cáo Vì Văn Ng. Trả lại cho anh Vì Thanh T 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Novo LX, màu trắng đen, biển kiểm soát 88H1- 031.50, số máy 11374237, số khung 374234.

3. Về án phí: Bị cáo Vì Văn Ng phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (21/01/2020). Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

196
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 06/2020/HS-ST ngày 21/01/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:06/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phù Yên - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về