Bản án 06/2020/HS-ST ngày 04/02/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 06/2020/HS-ST NGÀY 04/02/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 04 tháng 02 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 282/2019/TLST-HS ngày 12 tháng 12 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 14/2020/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 01 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lê Châu K (Tên gọi khác: X), sinh ngày 05/7/1988. Tại: Bình Dương. Nơi ĐKHKTT: phường H, thành phố M, tỉnh Bình Dương. Trình độ học vấn: 6/12. Nghề nghiệp: Thợ sơn; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Con ông Lê Văn B (chết) và bà Phạm Thị T; Bị cáo chưa có vợ, con. Tiền án: Không. Tiền sự: Ngày 04/3/2016, Công an phường P, thành phố M, tỉnh Bình Dương xử phạt hành chính với số tiền 1.500.000 đồng về hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy theo Quyết định số 26/QĐ - XPVPHC; Ngày 14/02/2017, Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong thời hạn 24 tháng theo Quyết định số 08/QĐ - TA. Nhân thân: Ngày 29/7/2008, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương xử phạt 08 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích” theo bản án hình sự phúc thẩm số 108/2008/HSPT; Ngày 27/9/2013, Tòa án nhân dân huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương xử phạt 12 tháng tù vệ tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo bản án hình sự sơ thẩm số 196/2013/HSST. Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 19/6/2019 và tạm giam cho đến nay; Có mặt.

Người làm chứng: Nguyễn Phước HĐ (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 07 giờ ngày 19/6/2019, Lê Châu K đang ngồi uống cà phê tại quán G, thuộc phường Đ, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương thì thấy người bạn là Nguyễn Phước HĐ, sinh năm 1988, HĐ ký hộ khẩu thường trú tại phường H, thành phố M, tỉnh Bình Dương điều khiển xe mô tô biển số 61B2 - 093.XX lưu thông qua quán cà phê nên K gọi HĐ lại và nhờ HĐ chở K đến huyện C, thành phố Hồ Chí Minh để mua dụng cụ về làm sơn nước do K là thợ sơn nước nhưng K không có xe mô tô đế đi thì HĐ đồng ý. Lúc này, HĐ điều khiển xe mô tô biển số 61B2 - 093.XX chở K đi đến huyện C, thành phố Hồ Chí Minh để mua dụng cụ làm sơn nước. Khi HĐ và K đi đến một đường hẻm (Không rõ số) gần ngã ba BM, thuộc huyện C, thành phố Hồ Chí Minh thì K kêu HĐ dừng xe đứng đợi K tại đầu hẻm còn K đi bộ vào trong đường hẻm mua dụng cụ làm sơn nước. Trên đường đi, K nảy sinh ý định mua ma túy đem về sử dụng nên gặp một người đàn ông (Không rõ họ, tên và địa chỉ) và hỏi mua ma túy với số tiền 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng. Người đàn ông đồng ý và lấy số tiền 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng từ K đồng thời đưa cho K 02 (Hai) đoạn ống hút nhựa bên trong có chứa chất ma túy. Sau khi mua ma túy xong, K cầm ma túy trong tay trái rồi đi bộ ra đầu hẻm nơi HĐ đang đứng chờ và kêu HĐ chở về thành phố M, tỉnh Bình Dương. Đến khoảng 07 giờ 50 phút cùng ngày 19/6/2019, khi HĐ điều khiển xe mô tô biển số 61B2 - 093.XX chở K lưu thông trên đường HVC, đoạn thuộc phường p, thành phố M, tỉnh Bình Dương thì bị Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy của Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương phối hợp với Công an phường P, thành phố M, tỉnh Bình Dương đang tuần tra trên đường HVC thấy HĐ và K có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu HĐ dừng xe để tiến hành kiểm tra thì phát hiện K đang cầm trong tay trái 02 (Hai) đoạn ống hút nhựa bên trong có chứa chất ma túy nên Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Thủ Dầu Một tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Lê Châu K, thu giữ: 02 (Hai) đoạn ống hút nhựa hàn kín bên trong có chứa chất màu trắng, đã được niêm phong theo quy định.

Ngày 19/6/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Thủ Dầu Một ra Quyết định trưng cầu giám định số: 424/QĐ-CQ.CSĐT gửi đến Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Dương để giám định số ma túy thu giữ của Lê Châu K. Ngày 27/6/2019, Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Dương có bản Kết luận giám định số 484/MT-PC09 kết luận: Mẫu 02 (Hai) đoạn ống hút nhựa hàn kín hai đầu, bên trong có chứa chất màu trắng được niêm phong trong một bì thư dán kín có chữ ký của cán bộ niêm phong Đào Thanh H, chữ ký của người bị bắt Lê Châu K và đóng dấu niêm phong bằng dấu tròn đỏ của Công an phường P, thành phố M, tỉnh Bình Dương gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 0,1073 gam, loại Heroine. Mẫu vật sau giám định được niêm phong, khối lượng 0,0890 gam.

Đối với Nguyễn Phước HĐ, quá trình điều tra xác định: Việc K mua ma túy và tàng trữ ma túy để sử dụng thì HĐ không biết nên Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Thủ Dầu Một không có căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự. Đối với người đàn ông bán ma túy cho Lê Châu K, do quá trình điều tra không xác định rõ họ, tên và địa chỉ cư trú nên Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Thủ Dầu Một không đề cập xử lý.

Cáo trạng số 10/CT-VKS-HS ngày 11/12/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một truy tố bị cáo Lê Châu K về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017. Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một trong phần tranh luận, giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017, xử phạt bị cáo mức hình phạt từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù. về biện pháp tư pháp: Đe nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì thư niêm phong có dấu vân tay người bị bắt Lê Châu K, cán bộ niêm phong Đào Thanh H và hình dấu đỏ công an phường P, thành phố M, bên trong có 02 đoạn ống hút chứa ma túy, trọng lượng sau giám định 0,0890 gam.

Tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến tranh luận. Trong lời nói sau cùng, bị cáo không trình bày.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là phù hợp với quy định của pháp luật.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản hỏi cung bị can, biên bản niêm phong, kết luận giám định cùng những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Với hành vi cất giữ trong người 0,1073 gam Heroine nhằm mục đích sử dụng mà bị cáo thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017. Bị cáo đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Do vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản như trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Hành vi mà bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến hoạt động quản lý của Nhà nước đối với chất ma túy. Hiện nay, tình hình nghiện hút chất ma túy đang diễn ra phức tạp trong mọi tầng lớp. Tệ nạn này là mối quan tâm của toàn xã hội, một trong những nguyên nhân dẫn đến tệ nạn này chưa được đẩy lùi chính là có sự tiếp tay của bị cáo. Mặt khác, xét bị cáo có nhân thân xấu, đã từng bị xử lý hình sự, xử phạt hành chính và bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc nhưng vẫn không tích cực cải tạo. Điều đó chứng tỏ bị cáo là phần tử nguy hiểm cho xã hội. Do đó, để có tác dụng giáo dục bị cáo ý thức tuân theo pháp luật, cần có mức hình phạt nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để có tác dụng giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, đồng thời nhằm răn đe và phòng ngừa tội phạm chung trong xã hội.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Căn cứ vào nhân thân cũng như các tình tiết giảm nhẹ, xét mức hình phạt mà Đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp.

[6] Về biện pháp tư pháp: Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì thư niêm phong có dấu vân tay người bị bắt Lê Châu K, cán bộ niêm phong Đào Thanh H và hình dấu đỏ công an phường P, thành phố M, bên trong có 02 đoạn ống hút chứa ma túy, trọng lượng sau giám định 0,0890 gam.

[7] Án phí sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 136, 260, 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1/ Về trách nhiệm hình sự: Tuyên bố bị cáo Lê Châu K phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2/ Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Lê Châu K 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 19/6/2019.

3/ Về biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì thư niêm phong có dấu vân tay người bị bắt Lê Châu K, cán bộ niêm phong Đào Thanh H và hình dấu đỏ công an phường P, thành phố M, bên trong có 02 đoạn ống hút chứa ma túy, trọng lượng sau giám định 0,0890 gam (theo kết luận giám định số 484/MT - PC09 ngày 27/6/2019).

(Thể hiện tại biên bản giao nhận vật chứng số 048.20 ngày 11/12/2019 giữa Chi cục Thi hành án dân sự và và Công an thành phố Thủ Dầu Một).

4/ Về án phí: Buộc bị cáo nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

165
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 06/2020/HS-ST ngày 04/02/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:06/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về