Bản án 06/2019/HNGĐ-ST ngày 13/02/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 06/2019/HNGĐ-ST NGÀY 13/02/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 13 tháng 02 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện C xét xử công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 731/2018/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 12 năm 2018 về việc tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2019/QĐST-HNGĐ ngày 11 tháng 01 năm 2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Trần Thị Ánh Đ, sinh năm 1986 (Có mặt).

Địa chỉ: Ấp T, xã M, huyện C, tỉnh An Giang.

Địa chỉ liên lạc: ấp A, xã T, huyện L, tỉnh Đồng Tháp.

Bị đơn: Anh Đặng Văn Quốc D, sinh năm 1983 (Vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp T, xã M, huyện C, tỉnh An Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, tờ tự khai và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Trần Thị Ánh Đ trình bày: Chị và anh D do quen biết nhau và đi đến hôn nhân vào năm 2003 có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật. Sống hạnh phúc được 15 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, thường xuyên cự cãi, anh D hay đánh đập. Anh chị không còn sống chung từ tháng 9 năm 2018 đến nay không tới lui thăm nhau. Gia đình hai bên không giàn xếp. Nay nhận thấy tình cảm không còn chị yêu cầu ly hôn với anh D.

- Về con chung: Anh chị có 01 con chung Đặng Quốc An L, sinh ngày 19/02/2006. Hiện cháu đang sống chung với anh D. Khi ly hôn, chị đồng ý để anh D được tiếp tục nuôi dưỡng con chung, chị đồng ý cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.500.000 đồng cho đến khi cháu L thành niên.

- Về tài sản chung: Không có.

- Về nợ chung: Không có.

Tòa án đã thông báo thụ lý vụ án và triệu tập hợp lệ anh Đặng Văn Quốc D đến Tòa án để tham gia phiên hòa giải nhưng anh D vắng mặt nên Tòa án không tiến hành hòa giải được vụ án.

Tại phiên tòa, chị Đ vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Chị Trần Thị Ánh Đ khởi kiện anh Đặng Văn Quốc D, anh D cư trú ấp T, xã M, huyện C, tỉnh An Giang, Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền, phù hợp theo quy định tại Điều 28, Điều 35, Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

Anh Đặng Văn Quốc D đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt. Căn cứ Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh D.

[2]. Về hôn nhân: Chị Đ và anh D sống chung với nhau vào năm 2003, có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật tại Ủy ban nhân dân xã M, huyện C, tỉnh An Giang nên quan hệ hôn nhân giữa anh chị được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Quá trình chung sống do anh, chị bất đồng quan điểm sống, anh D hay đánh đập chị nên dẫn đến va chạm, mâu thuẫn với nhau. Chị và anh D không còn sống chung từ tháng 9/2018 cho đến nay, như vậy mâu thuẫn đã trầm trọng, đời sống chung giữa chị Đ và anh D không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, chị Đ yêu cầu ly hôn với anh D, căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân gia đình Khi vợ hoặc chồng xin ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn….” Tại phiên tòa, chị Đ xác định tình cảm không còn. Do đó, yêu cầu ly hôn của chị Đ là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Đ.

[3]. Về con chung: Anh chị có 01 con chung Đặng Quốc An L, sinh ngày 19/02/2006. Hiện cháu đang sống chung với anh D. Khi ly hôn, chị đồng ý để anh D được tiếp tục nuôi dưỡng con chung. Tuy nhi n, việc giao con cho ai nuôi cần phải xem xét mọi mặt về quyền lợi của con chưa thành niên, hiện nay cháu L sống với anh D vẫn phát triển tốt về thể chất và tinh thần. Trong quá trình làm việc Tòa án đã tiến hành ghi nhận ý kiến và nguyện vọng của cháu L thì cháu có nguyện vọng sống với D, chị Đ cũng không có ý kiến phản đối. Do đó, Hội đồng xét xử giao cháu L cho anh D tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình “ Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con ; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”.

[4]. Về cấp dưỡng nuôi con: Tại phiên Tòa chị Đ tự nguyện cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.500.000 đồng cho đến khi cháu L thành niên. Thời gian cấp dưỡng được thực hiện bắt đầu tháng 01.2019. Hội đồng xét xử xét thấy đây là sự tự nguyện của đương sự và Hội đồng xét xử chấp nhận sự tự nguyện này là phù hợp với khoản 2 Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[5]. Về tài sản chung: Chị Đ xác định không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[6]. Về nợ chung: Chị Đ xác định không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Ghi nhận chị Đ xác định không có nợ chung, nhưng sau khi bản án ly hôn có hiệu lực pháp luật nếu có nguyên đơn xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của chị Đ và anh D thì anh, chị phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.

[7]. Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, chị Trần Thị Ánh Đ phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 28, 35, 39, 147, 228, 235, 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 53, 56, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận y u cầu khởi kiện của chị Trần Thị Ánh Đ.

- Về hôn nhân: Chị Trần Thị Ánh Đ được ly hôn với anh Đặng Văn Quốc D.

- Về con chung: Anh Đặng Văn Quốc D được tiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng con chung tên Đặng Quốc An L, sinh ngày 19/02/2006. Hiện cháu L đang sống chung với anh D. Chị Đ có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho cháu L mỗi tháng 1.500.000 đ (Một triệu năm trăm ngàn đồng) cho đến khi cháu L thành niên. Thời gian thực hiện bắt đầu tháng 01.2019.

Anh D cùng các thành vi n gia đình (nếu có) không được cản trở chị Đ trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, thay đối mức cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

- Về tài sản chung: Chị Đ xác định không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

- Về nợ chung: Chị Đ xác định không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Ghi nhận chị Đ và anh D xác định không có nợ chung, nhưng sau khi bản án ly hôn có hiệu lực pháp luật nếu có nguyên đơn xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của anh chị thì anh, chị phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.

- Về án phí: Chị Trần Thị Ánh Đ phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) và án phí cấp dưỡng nuôi con 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu tiền số 0000335 ngày 03/12/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Chị Đ phải nộp thêm 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng).

Đương sự có mặt tham gia phiên toà có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

196
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 06/2019/HNGĐ-ST ngày 13/02/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:06/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về