Bản án 06/2019/HNGĐ-ST ngày 10/09/2019 về tranh chấp hôn nhân gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUAN HÓA – TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 06/2019/HNGĐ-ST NGÀY 10/09/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

Ngày 10 tháng 9 năm 2019. Tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quan Hóa. Tòa án nhân dân huyện Quan Hóa, Thanh Hóa đã đưa ra xét xử sơ thẩm công khai vụ án vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số: 22/2019/TLST-HNGĐ, ngày 24/4/2019 về việc “Tranh cháp hôn nhân gia đình”. Theo Quyết định hoãn phiên tòa số: 03/2019/QĐST-HNGĐ, ngày 20 tháng 8 năm 2019. Giữa các đương sự:

1.Nguyên đơn: Hà Văn Ng – sinh năm 1984 (có mặt); Nơi ĐKNKTT: bản T, xã P, huyện Q, Thanh Hóa.

2.Bị đơn: Hà Thị O – sinh năm 1987 (vắng mặt không có lý do); Nơi ĐKNKTT: bản T, xã P, huyện Q, tỉnh Thanh Hóa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 18/4/2019 của anh Hà Văn Ng là nguyên đơn và bản tự khai, các tài liệu, chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án thể hiện:

* Về hôn nhân: Nguyên đơn Hà Văn Ng và bị đơn Hà Thị O kết hôn với nhau vào ngày 14/6/2004, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện Q.

Sau khi lấy nhau về vợ chồng chung sống hạnh phúc, tháng 8 năm 2018 thì tình cảm vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn tình cảm vợ chồng là do tính tình vợ chồng không hợp, quan điểm, suy nghĩ, cách sống của mỗi người là khác nhau, không thông cảm cho nhau nên không tìm thấy sự hòa hợp trong đời sống vợ chồng. Nguyên đơn cho rằng bị đơn chị O có quan hệ với người đàn ông khác, sống không chung thủy. Mâu thuẫn tình cảm vợ chồng đã được 2 bên gia đình, chính quyền địa phương nhiều lần dàn xếp, hòa giải nhưng tình cảm vợ chồng vẫn không cải thiện được. Vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 8/2018 đến nay không còn quan tâm đến nhau nữa. Hiện nay anh Ngược nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài. Vì vậy nguyên đơn Hà Văn Ng đề nghị Tòa án nhân dân huyện Quan Hóa, Thanh Hóa giải quyết cho anh được ly hôn với bị đơn Hà Thị O.

*Về con cái: Trong thời gian chung sống vợ chồng có 02 con chung, tên các cháu là Hà Thị Ngọc A sinh ngày 02/10/2004 và Hà Ngọc T – sinh ngày 14/12/2010, hiện nay các con đang ở với anh Ng. Do chị O thiếu sự quan tâm chăm sóc con cái, nếu để các con ở với chị O thì sẽ không bảo đảm đầy đủ các điều kiện phát triển của con. Vì vậy nguyên đơn Hà Văn Ng đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục các cháu Hà Thị Ngọc A và Hà Ngọc T; Nguyên đơn không yêu cầu bị đơn Hà Thị O cấp dưỡng nuôi con chung.

Tại bản ý kiến ngày 17/4/2019 cháu Hà Thị Ngọc A và Hà Ngọc T trình bày nguyện vọng xin được ở với nguyên đơn Hà Văn Ng.

*Về tài sản và công nợ: Tài sản chung, tài sản riêng và công nợ vợ chồng không có gì nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về phía bị đơn Hà Thị O, sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân huyện Quan Hóa đã tống đạt Thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập, Thông báo mở phiên họp việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải... nhưng chị O không nhận các văn bản tố tụng nêu trên của Tòa án và không đến Tòa án để làm việc. Tòa án đã lập biên bản về việc đương sự không nhận tống đạt các văn bản tố tụng đồng thời niêm yết các văn bản tố tụng nêu trên tại gia đình Hà Thị O và UBND xã P theo quy định của pháp luật. Căn cứ vào khoản 1 Điều 207, khoản 2 Điều 208 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ mà không tiến hành hòa giải.

Tại biên bản xác minh ngày 18/4/2019 của Tòa án nhân dân huyện Quan Hóa tiến hành xác minh mâu thuẫn tình cảm vợ chồng và thông tin hiện tại của bị đơn Hà Thị O được thể hiện như sau: chị O và anh Ng kết hôn với nhau vào năm 2004 tại UBND xã P, huyện Q, sau khi lấy nhau vợ chồng sinh sống tại bản T, xã P. Trong quá trình chung sống, vợ chồng có xảy ra mâu thuẫn; nguyên nhân là do tính tình vợ chồng không hợp, quan điểm sống khác nhau nên không tìm được tiếng nói chung trong hôn nhân. Chị O có quan hệ với người đàn ông khác, sống không chung thủy với chồng. Chính quyền địa phương và hai bên gia đình đã nhiều lần can thiệp, động viên, hòa giải nhưng tình cảm vợ chồng vẫn không cải thiện được, vợ chồng đã sống ly thân nhau từ tháng 8/2018.

Chị Hà Thị O có đăng ký hộ khẩu thường trú tại bản T, xã P, huyện Q. Quá trình giải quyết vụ án, Ban công an xã đã phối hợp với Tòa án tiến hành tống đạt thông báo thụ lý và các văn bản tố tụng nhưng chị O đều từ chối nhận, khoảng cuối tháng 6/2019 chị O tự động rời khỏi địa phương không thông báo cho Ban Công an xã biết.

Ngày 20/8/2019 Tòa án đã mở phiên tòa xét xử vụ án nhưng chị O vắng mặt không có lý do nên HĐXX ra quyết định hoãn phiên tòa theo quy định tại khoản 1 Điều 227 của Bộ luật TTDS. Tại phiên tòa hôm nay chị O tiếp tục vắng mặt không có lý do, căn cứ vào điểm b, khoản 2 Điều 227 của Bộ luật TTDS. Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị O.

*Ý kiến của đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Quan Hóa tham gia phiên tòa phát biểu về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án như sau:

- Về tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng từ khi thụ lý vụ án và tại phiên tòa hôm nay: Thẩm phán đã thụ lý vụ án, thu thập chứng cứ; mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; ra quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa đúng quy định về thẩm quyền, thời hạn, trình tự thủ tục tố tụng. Phiên tòa được mở đúng thời gian, địa điểm trong quyết định đưa vụ án ra xét xử và quyết định hoãn phiên tòa. Hội đồng xét xử thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, không có thiếu sót vi phạm gì. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của đương sự; bị đơn vắng mặt tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cũng như vắng mặt tại phiên tòa là chưa thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về đường lối giải quyết vụ án: Đề nghị HĐXX áp dụng Điều 56,81,82,83 Luật hôn nhân gia đình 2014; Khoản 2 Điều 21, Điều 28, Điều 35 khoản 4 Điều 147, các Điều 227, 228, 271, 273,278 BLTTDS 2015; Điểm a, khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội. Đề nghị HĐXX xử vắng mặt bị đơn và chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn Hà Văn Ng, nguyên đơn phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

1.1. Về quan hệ pháp luật tranh chấp: anh Hà Văn Ng khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp về ly hôn, nuôi con với chị Hà Thị O. Đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự.

1.2.Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Bị đơn Hà Thị O có nơi cư trú tại bản T, xã P, huyện Q, tỉnh Thanh Hóa. Căn cứ điểm a, khoản 1 Điều 35 và điểm a, khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân huyện Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa có thẩm quyền giải quyết vụ án.

1.3.Về sự vắng mặt của bị đơn tại phiên tòa: Bị đơn đã được Tòa án niêm yết quyết định hoãn phiên tòa và giấy triệu tập hợp lệ nhưng bị đơn vẫn vắng mặt tại phiên tòa không có lý do. Căn cứ vào Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn Hà Thị On.

[2] Về nội dung:

2.1 Về hôn nhân: Nguyên đơn Hà Văn Ng và bị đơn Hà Thị O tự nguyện đăng ký kết hôn vào ngày 24/6/2004 tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện Q, đây là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, tính cách không hợp nhau, không tìm được tiếng nói chung trong hôn nhân, nên vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 8/2018 đến nay. Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử nhận thấy về hôn nhân giữa nguyên đơn Hà Văn Ng và bị đơn Hà Thị O đời sống chung vợ chồng không có hạnh phúc, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài, vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 8/2018 đến nay không còn quan tâm đến nhau nữa. Vì vậy nên chấp nhận đơn yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn Hà Văn Ng là phù hợp với Điều 56 Luật hôn nhân gia đình năm 2014.

2.2.Về con cái: Vợ chồng có 02 con chung là Hà Thị Ngọc A và Hà Ngọc T.

Theo yêu cầu của nguyên đơn Hà Văn Ng muốn được trực tiếp nuôi cả 2 cháu A và T, theo nguyện vọng của cháu Hà Thị Ngọc A và Hà Ánh T là muốn được ở với bố. Căn cứ thực tế điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì điều kiện của nguyên đơn tốt hơn so với bị đơn, vì nguyên đơn có công việc ổn định, ngoài trồng trọt còn làm thêm với mức thu nhập hàng tháng là 3.000.000đ (Ba triệu đồng)/tháng, trong khi đó chị O là lao động tự do, thu nhập không ổn định, hơn nữa 2 cháu A và T từ trước đến nay đều do một mình anh Ng trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, các cháu đang còn nhỏ và đang trong giai đoạn phát triển quan trọng về thể chất và tinh thần, cần có sự gần gũi, quan tâm chăm sóc trực tiếp từ người bố để bảo đảm sự phát triển cho cháu về mọi mặt. Căn cứ vào quyền lợi mọi mặt của con, để đảm bảo tốt nhất các điều kiện ăn, ở, học tập và sự phát triển của cháu về thể lực, trí lực thì việc giao các cháu Hà Thị Ngọc A và Hà Ánh T cho nguyên đơn Hà Văn Ng tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục là hoàn toàn phù hợp với quy định của Luật hôn nhân và gia đình. Từ những căn cứ phân tích nêu trên, xét về các điều kiện để nuôi dưỡng chăm sóc, nuôi dạy con cái thì giao các cháu A, T cho anh Ng tiếp tục nuôi dưỡng là cần thiết để các cháu hoàn thiện cả về thể chất lẫn tinh thần. Vì vậy xem xét giao các con cho anh Ng nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục là phù hợp với điều 81, 82 và 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

2.3. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Nguyên đơn Hà Văn Ng không yêu cầu nên HĐXX không xem xét giải quyết.

2.4. Về tài sản, công nợ: Anh Ng không yêu cầu và chị O không có ý kiến gì về vấn đề này nên HĐXX không xem xét giải quyết.

[3]. Xét ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa hôm nay về việc tuân theo pháp luật và chấp hành pháp luật của những người tiến hành tố tụng, những người tham gia tố tụng và đề nghị đường lối giải quyết vụ án là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4].Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điểm a, khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 31/12/2016. Nguyên đơn Hà Văn Ngược phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 56, 81,82,83 Luật hôn nhân gia đình năm 2014; Khoản 1 Điều 28, các Điều 147, 227, 228, 271 và 273 BLTTDS 2015; Điểm a, khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 31/12/2016.

1. Về hôn nhân:

Xử: Cho nguyên đơn Hà Văn Ng được ly hôn với bị đơn Hà Thị O.

2. Về con cái:

Giao các cháu Hà Thị Ngọc A và Hà Ánh T cho Hà Văn Ng tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi các cháu A, T đến tuổi trưởng thành(đủ 18 tuổi); bị đơn Hà Thị O không phải cấp dưỡng nuôi con chung và được quyền đi lại thăm nom, chăm sóc các Hà Thị Ngọc A và Hà Ánh T không ai được ngăn cản.

Vì quyền lợi của con cái, khi cần thiết các bên được làm đơn xin thay đổi nuôi con và cấp dưỡng nuôi con chung.

3. Về án phí và các vấn đề khác:

Nguyên đơn Hà Văn Ng phải nộp 300.000đ(Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự - HNGĐ sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền 300.000đ(Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí mà nguyên đơn Hà Văn Ng đã nộp tại biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2015/ 0004218, ngày 24/4/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quan Hóa, Thanh Hóa. Nguyên đơn Hà Văn Ng đã thực hiện xong nghĩa vụ án phí HNGĐ sơ thẩm.

Án xử sơ thẩm công khai có mặt nguyên đơn, vắng mặt bị đơn. Nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc được niêm yết công khai./.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại khoản 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7,9 luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

339
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 06/2019/HNGĐ-ST ngày 10/09/2019 về tranh chấp hôn nhân gia đình

Số hiệu:06/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quan Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về