Bản án 06/2018/DS-ST ngày 09/07/2018 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HƯƠNG KHÊ, TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 06/2018/DS-ST NGÀY 09/07/2018 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 09 tháng 7 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh xét xử công khai vụ án thụ lý số 05/2018/TLST-DS ngày 31/01/2018 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 17/2018/QĐXX-ST ngày 31/5/2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 11/2018/QĐST-DS ngày 22/6/2018, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ngân hàng N. Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Quốc T, chức vụ: Giám đốc Ngân hàng N - Chi nhánh huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh (Theo Văn bản ủy quyền số: 510/QĐ-HĐTV-PC ngày 19/6/2014 của Chủ tịch HĐTV Ngân hàng N); Có mặt.

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Văn C, bà Trần Thị H; Địa chỉ: Xóm X xã P, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh; Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Trong đơn khởi kiện ngày 26/01/2018, bản tự khai, trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:

Ngày 14/02/2012 Ngân hàng N - Chi nhánh huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh và ông Nguyễn Văn C, bà Trần Thị H ký hợp đồng tín dụng số 12/HĐTD với nội dung: Ngân hàng N cho ông Nguyễn Văn C là đại diện hộ gia đình vay số tiền 140.000.000đ; Lãi suất tiền vay: 1,75%/tháng; Lãi suất cho vay được điều chỉnh đến 150% lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố theo từng thời điểm và được tính ngay sau khi có thông báo; Phương pháp trả lãi tiền vay:

Theo định kỳ tháng/1 lần; Lãi suất nợ quá hạn: Nếu bên vay không trả nợ gốc, lãi đúng hạn và không được điều chỉnh kỳ hạn hoặc gia hạn trả nợ gốc thì Ngân hàng sẽ chuyển dư nợ thực tế sang nợ quá hạn và bên vay phải chịu lãi suất nợ quá hạn bằng 150% so với lãi suất vay đã thỏa thuận; Thời hạn cho vay là 12 tháng, kể từ ngày 14/02/2012.

Để đảm bảo khoản vay trên, ngày 14/02/2012 giữa Ngân hàng N với ông Nguyễn Văn C và bà Trần Thị H đã ký Hợp đồng thế chấp tài sản. Tài sản thế chấp là giá trị quyền sử dụng đất diện tích 204m2 tại xóm X, xã P, huyện Hương Khê theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số S993021 mang tên Nguyễn Văn C do UBND huyện Hương Khê cấp ngày 15/11/1999 để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng. Hợp đồng thế chấp đã được chứng thực và đăng ký thế chấp tại Trung tâm phát triển quỹ đất - Đăng ký quyền sử dụng đất huyện Hương Khê.

Ngân hàng N đã thực hiện việc giải ngân cho ông Nguyễn Văn C với số tiền là 140.000.000đ. Khách hàng đã trả lãi đến ngày 27/6/2012 số tiền là 10.920.000đ và trả nợ gốc số tiền là 20.000đ. Đến ngày 18/02/2013 khoản vay theo Hợp đồng tín dụng số 12/HĐTD ngày 14/02/2012 đến hạn trả nợ gốc, Ngân hàng đã nhiều lần xuống làm việc, thông báo, đôn đốc nhưng khách hàng vẫn không trả được nợ vay và tiền lãi cho Ngân hàng N.

Tính đến ngày xét xử sơ thẩm (09/7/2018) ông C và bà H còn nợ Ngân hàng N các khoản như sau: Nợ gốc: 139.980.000 đồng; Lãi: 158.649.833 đồng (trong đó, lãi trong hạn là 110.689.185 đồng và lãi quá hạn là 47.960.648 đồng); Tổng cộng: 298.629.833 đồng.

Ngân hàng N đề nghị Tòa án buộc ông C, bà H phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng số tiền tính đến ngày 09/7/2018 là 298.629.833 đồng. Kể từ sau ngày xét xử sơ thẩm ông C, bà H phải tiếp tục chịu tiền lãi phát sinh theo Hợp đồng tín dụng đã ký ngày 14/02/2012. Nếu khách hàng không trả đầy đủ số nợ trên đề nghị xử lý tài sản thế chấp theo hợp đồng thế chấp đã ký để đảm bảo trả nợ cho Ngân hàng. Tiếp tục duy trì Hợp đồng thế chấp tài sản ngày 14/02/2012 giữa Ngân hàng N với ông Nguyễn Văn C và bà Trần Thị H cho đến khi ông C, bà H thực hiện xong việc trả nợ.

- Bị đơn ông Nguyễn Văn C và bà Trần Thị H: Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành thủ tục tống đạt các văn bản tố tụng cho bị đơn nhưng ông C không có mặt tại địa phương, còn bà H khi có mặt thì không hợp tác ký nhận văn bản và cả hai bị đơn đều không có ý kiến trình bày của mình.

- Tòa án nhân dân huyện Hương Khê tiến hành xác minh tài sản thế chấp ngày 31/5/2018 cho thấy: Khi ký hợp đồng thế chấp năm 2012 thì đã có 01 ngôi nhà gỗ dựng ở tạm thuộc quyền sở hữu của ông C, bà H trên quyền sử dụng đất thế chấp, nhưng nhà có giá trị không lớn nên trong hợp đồng chỉ xác định tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất 204m2 và đến nay ngôi nhà này ông C, bà H vẫn đang sử dụng sinh sống ở đây.

- Ý kiến của vị đại diện VKSND huyện Hương Khê tham gia phiên tòa:

Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, những người tiến hành tố tụng và người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn ông Nguyễn Văn C và bà Trần Thị H đã không đến Tòa án để ghi bản tự khai, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải theo giấy thông báo của Tòa án, và vắng mặt tại phiên tòa không có lý do đã vi phạm Điều 70 và Điều 72 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 274, 275, 280, 317, 318, 320, 321, 322, 323, 351, 353, 357, 466, 468, 470 Bộ luật Dân sự năm 2015. Điểm b khoản 1 Điều 24; khoản 1 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng N. Buộc ông Nguyễn Văn C, bà Trần Thị H phải có nghĩa vụ thanh toán cho Ngân hàng N số tiền 298.629.833 đồng, trong đó nợ gốc là 139.980.000 đồng, nợ lãi phát sinh tính đến ngày 09/7/2018 là 158.649.833 đồng.

Kể từ ngày tiếp theo ngày xét xử sơ thẩm, ông C, bà H tiếp tục phải chịu tiền lãi phát sinh theo Hợp đồng tín dụng đã ký ngày 14/02/2012 cho đến khi ông C, bà H thực hiện xong việc trả nợ. Tiếp tục duy trì Hợp đồng thế chấp tài sản ngày 14/02/2012 giữa ông C, bà H với Ngân hàng N cho đến khi ông C, bà H thực hiện xong nghĩa vụ trả nợ.

Về án phí: Buộc bị đơn ông Nguyễn Văn C, bà Trần Thị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định. Trả lại cho Ngân hàng N tiền tạm ứng án phí đã nộp.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Đây là vụ án về tranh chấp Hợp đồng tín dụng giữa nguyên đơn Ngân hàng N với bị đơn là ông Nguyễn Văn C và bà Trần Thị H đều có địa chỉ tại xóm X, xã P, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh. Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh.

[1.2] Về việc vắng mặt của bị đơn: Trong hợp đồng tín dụng và Giấy đề nghị vay vốn ngày 14/02/2012 ông Nguyễn Văn C và bà Trần Thị H đều ghi có địa chỉ tại xóm X, xã Phú P, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh (có xác nhận của UBND xã P). Người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện. Hiện nay ông Nguyễn Văn C thường xuyên vắng mặt tại địa chỉ đã ghi trong hợp đồng mà không thông báo cho Ngân hàng biết về nơi cư trú mới theo quy định tại khoản 3 Điều 40, điểm b khoản 2 Điều 277 Bộ luật Dân sự, do đó xác định bị đơn ông Nguyễn Văn C cố tình giấu địa chỉ để trốn tránh, Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tục chung.

Sau khi thụ lý vụ án Tòa án đã tiến hành thủ tục tống đạt các văn bản tố tụng cho bị đơn, ông C vắng mặt tại địa phương, bà H khi có mặt thì không ký nhận, không hợp tác với Tòa án. Do đó, Tòa án đã lập biên bản về việc không thực hiện được việc tống đạt (có xác nhận của xóm trưởng), đồng thời tiến hành thủ tục niêm yết công khai văn bản tố tụng theo đúng quy định tại Điều 177, 179 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Tòa án cũng đã tống đạt văn bản tố tụng triệu tập hợp lệ bị đơn tham gia phiên tòa đến lần thứ hai nhưng bị đơn vẫn vắng mặt không có lý do. Vì vậy, căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về nội dụng:

[2.1] Xét yêu cầu của nguyên đơn: Ngày 14/02/2012 ông Nguyễn Văn C (chồng của bà Trần Thị H) đại diện cho hộ gia đình ký Giấy đề nghị vay vốn và ký Hợp đồng tín dụng với Ngân hàng N trên cơ sở tự nguyện; những người tham ký kết hợp đồng có đủ thẩm quyền, đủ năng lực pháp luật và hành vi dân sự; hình thức, nội dung hợp đồng không vi phạm các điều cấm, không trái pháp luật, đạo đức xã hội. Như vậy, nội dung và hình thức hợp đồng đã tuân thủ Điều 121, 122, 124 Bộ luật Dân sự năm 2005 khi giao kết, nên xác định là Hợp đồng hợp pháp. Vì vậy, làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ giữa các bên và các bên phải có trách nhiệm thực hiện các thỏa thuận đã cam kết trong hợp đồng.

Quá trình thực hiện Hợp đồng Ngân hàng N đã thực hiện đúng nghĩa vụ của mình là giải ngân số tiền 140.000.000đ cho ông Nguyễn Văn C và bà Trần Thị H. Nhưng ông C, bà H không thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ đã cam kết. Do ông C, bà H vi phạm nghĩa vụ trả nợ nên Ngân hàng N đã khởi kiện ra Tòa án theo Điều 5, 9 của Hợp đồng tín dụng ký ngày 14/02/2012 là có căn cứ.

[2.2] Về nghĩa vụ trả nợ: Xét thấy việc Ngân hàng N khởi kiện yêu cầu ông Nguyễn Văn C và bà Trần Thị H phải trả cho Ngân hàng tổng số tiền 298.629.833đ là có căn cứ, phù hợp với các tài liệu chứng cứ mà nguyên đơn đã cung cấp và phù hợp với quy định tại các Điều 463, 466, 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 91 và Điều 95 của Luật các tổ chức tín dụng, nên được Hội đồng xét xử chấp nhận. Do vậy, buộc bị đơn ông Nguyễn Văn C và bà Trần Thị H phải trả cho nguyên đơn số tiền nợ gốc 139.980.000đ và tiền lãi phát sinh từ Hợp đồng tín dụng tính đến ngày xét xử sơ thẩm ngày 09/7/2018 là 158.649.833 đồng. Kể từ ngày tiếp theo ngày xét xử sơ thẩm bị đơn phải tiếp tục chịu tiền lãi phát sinh mà các bên thỏa thuận trong Hợp đồng tín dụng.

[2.3] Về Hợp đồng thế chấp và xử lý tài sản thế chấp: Hợp đồng thế chấp tài sản ngày 14/02/2012 được ký kết giữa Ngân hàng N - Chi nhánh huyện Hương Khê với ông Nguyễn Văn C và bà Trần Thị H, theo đó ông C, bà H tự nguyện dùng tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất diện tích 204m2 tại xóm 2, xã P, huyện Hương Khê theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số S993021 mang tên ông Nguyễn Văn C do UBND huyện Hương Khê cấp ngày 15/11/1999 để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng. Kết quả xác minh ngày 31/5/2018 của Tòa án nhân dân huyện Hương Khê cho thấy: hiện nay trên đất thế chấp có 01 ngôi nhà gỗ, lợp ngói thuộc quyền sở hữu của ông C, bà H. Khi ký hợp đồng thế chấp năm 2012 thì đã có ngôi nhà này, nhưng do giá trị không lớn nên không xác định tài sản thế chấp trong hợp đồng.

Hội đồng xét xử xét thấy Hợp đồng thế chấp được ký kết có đầy đủ chữ ký của các bên, được chứng thực tại UBND xã P và được đăng ký thế chấp ngày 14/02/2012 tại Trung tâm phát triển Quỹ đất - Đăng ký quyền sử dụng đất huyện Hương Khê theo đúng quy định của pháp luật về đăng ký giao dịch đảm bảo. Xét thấy nội dung và hình thức của Hợp đồng thế chấp tài sản thời điểm ký kết giữa các bên theo đúng quy định tại Điều 342, 343, 715, 716 của Bộ luật Dân sự năm 2005, nên xác định là hợp đồng là hợp pháp. Do đó, trường hợp ông Nguyễn Văn C, bà Trần Thị H không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ trả nợ thì Ngân hàng N - Chi nhánh huyện Hương Khê có quyền yê cầu cơ quan có thẩm quyền xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất và bao gồm cả tài sản gắn liền với đất theo quy định tại khoản 1 Điều 325 Bộ luật Dân sự năm 2015. Vì vậy, cần tiếp tục duy trì Hợp đồng thế chấp tài sản ngày 14/02/2012 cho đến khi ông C, bà H thực hiện xong nghĩa vụ trả nợ.

[3] Về án phí dân sự sơ thẩm: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được Tòa án chấp nhận nên không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, do đó hoàn trả lại số tiền tạm ứng án phí cho nguyên đơn đã nộp. Bị đơn ông Nguyễn Văn C, bà Trần Thị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.

[4] Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 1 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Căn cứ vào khoản 3 Điều 40, điểm b khoản 2 Điều 277; các Điều 274, 275, 280, 317, 318, 320, 321, 322, 323, khoản 1 Điều 325, Điều 351, 357, 463, 466, 468 Bộ luật Dân sự năm 2015;

- Căn cứ vào khoản 16 Điều 4; các Điều 90, 91, 95, 98 Luật các Tổ chức tín dụng;

- Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 24, khoản 1 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án,

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng N. Buộc ông Nguyễn Văn C, bà Trần Thị H phải có nghĩa vụ thanh toán cho Ngân hàng N số tiền 298.629.833 đ (Hai trăm chín mươi tám triệu sáu trăm hai mươi chín nghìn tám trăm ba mươi ba đồng), trong đó nợ gốc là 139.980.000đ (Một trăm ba mươi chín triệu chín trăm tám mươi nghìn đồng), nợ lãi phát sinh tính đến ngày xét xử sơ thẩm (ngày 09/7/2018) là 158.649.833đ (Một trăm năm mươi tám triệu sáu trăm bốn mươi chín nghìn tám trăm ba mươi ba đồng). Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm (ngày 10/7/2018), ông C, bà H tiếp tục phải chịu tiền lãi phát sinh theo thỏa thuận trong Hợp đồng tín dụng đã ký ngày 14/02/2012.

Trường hợp ông C, bà H không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ trả nợ thì Ngân hàng N có quyền yêu cầu Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hương Khê xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất và bao gồm cả tài sản gắn liền với đất. Tiếp tục duy trì Hợp đồng thế chấp ngày 14/02/2012 cho đến khi ông C, bà H thực hiện xong nghĩa vụ trả nợ.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

2. Về án phí: Buộc ông Nguyễn Văn C, bà Trần Thị H phải nộp 14.931.491đ (Mười bốn triệu chín trăm ba mươi mốt nghìn bốn trăm chín mốt đồng) án phí dân sự sơ thẩm. Trả lại cho Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Việt Nam 7.177.000đ (Bảy triệu một trăm bảy mươi bảy nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai số AA/2016/0004145 ngày 31/01/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh.

3. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

360
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 06/2018/DS-ST ngày 09/07/2018 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

Số hiệu:06/2018/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hương Khê - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 09/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về