TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIỒNG RIỀNG, TỈNH KIÊN GIANG
BẢN ÁN 05/2021/HNGĐ-ST NGÀY 20/01/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH - LY HÔN
Ngày 20 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 569/2020/TLST - HNGĐ ngày 10 tháng 12 năm 2020 về việc “Tranh chấp hôn nhân và gia đình - ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 06 tháng 01 năm 2021. Giữa:
1. Nguyên đơn: Chị Phan Thị Ngọc C, sinh năm: 1990; địa chỉ: khu phố 6, thị trấn Giồng Riềng, huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang (có mặt)
2. Bị đơn: Anh Huỳnh Văn D, sinh năm: 1988; địa chỉ: khu phố 6, thị trấn Giồng Riềng, huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang (có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề ngày 20/7/2020, quá trình giải quyết vụ kiện và tại phiên tòa nguyên đơn Chị Phan Thị Ngọc C trình bày:
Chị và Anh Huỳnh Văn D tự tìm hiểu quen biết nhau được cha mẹ hai bên đồng ý tổ chức lễ cưới vào năm 2019, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Hòa An, huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang.
Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc nhưng đến cuối năm 2019 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng không hòa hợp tánh tình, bất đồng quan điểm sống, không tin tưởng lẫn nhau dẫn đến vợ chồng thường xuyên cự cải nhau. Mặc dù đã nhiều lần cố gắng hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng không có kết quả, mục đích hôn nhân không đạt được. Chị và Anh D đã sống ly thân từ đó cho đến nay Trong quá trình chung sống chị và Anh D không có con chung.
Về tài sản, nợ chung: Chị C không yêu cầu giải quyết Nay Chị C khởi kiện yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết cho chị được ly hôn với Anh Huỳnh Văn D Về con chung: Không có.
Về tài sản, nợ chung: Không yêu cầu giải quyết.
Tại bản tự khai ngày 24/12/2020, quá trình giải quyết vụ kiện và tại phiên tòa bị đơn Anh Huỳnh Văn D trình bày: Anh D xác định lời trình bày của Chị Phan Thị Ngọc C về hôn nhân, con chung là đúng.
Anh D thừa nhận trong khi chung sống anh và Chị C cũng có nhiều mâu thuẫn với nhau, nguyên nhân là từ vấn đề kinh tế trong gia đình và những bất đồng quan điểm trong cuộc sống hàng ngày. Bản thân anh thường xuyên đi làm xa không có mặt ở nhà nên vợ chồng chưa có nhiều thời gian để hàn gắng tình cảm và tháo gỡ những mâu thuẩn xảy ra.
Nay Chị C khởi kiện yêu cầu được ly hôn thì anh không đồng ý, anh yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết cho anh được đoàn tụ tiếp tục chung sống với Chị C để hàn gắng tình cảm và tháo gỡ mâu thuẫn của vợ chồng
Về con chung: Không có
Về tài sản, nợ chung: Tại phiên tòa Anh D yêu cầu giải quyết tài sản và nợ chung của vợ chồng xong rồi mới giải quyết việc ly hôn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên Tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
Chị C khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với Anh D nên đây là “Tranh chấp về hôn nhân và gia đình – xin ly hôn” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự. Anh D là bị đơn trong vụ án có nơi cư trú tại huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang nên theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang.
[2] Về nội dung:
- Xét về hôn nhân: Chị C và Anh D chung sống với nhau vào năm 2019, trên cơ sở hôn nhân hoàn toàn tự nguyện, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật tại Ủy ban nhân dân xã Hòa An, huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang và được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 109 ngày 24/12/2018. Do vậy việc kết hôn của anh, chị đã tuân thủ đúng theo quy định của pháp luật, quan hệ hôn nhân của anh, chị là hợp pháp. Do đó khi có yêu cầu ly hôn thì Toà án áp dụng luật Hôn nhân gia đình năm 2014 để giải quyết.
Xét về mâu thuẫn giữa Chị C và anh Dằn, lúc đầu chỉ là mâu thuẫn nhỏ trong cuộc sống mà các cặp vợ chồng thường mắc phải nhưng anh, chị không tìm hiểu nguyên nhân từ đâu để khắc phục, tháo gỡ mà để cho mâu thuẫn kéo dài ngày càng trầm trọng, dẫn đến Chị C khởi kiện yêu cầu xin được ly hôn với anh Dằn. Từ khi thụ lý vụ kiện Tòa án tiến hành mời hai bên hòa giải động viên anh, chị bỏ qua những mâu thuẫn nhỏ để tiếp tục đoàn tụ chung sống với nhau nhưng Chị C cương quyết xin ly hôn vì cho rằng chị và Anh D không còn phù hợp tánh tình, bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cự cãi không thể chung sống với nhau được nữa. Hội đồng xét xử xét thấy quá trình chung sống giữa anh, chị đã xảy ra nhiều mâu thuẫn kéo dài mà không thể tự hòa giải với nhau, đồng thời anh, chị cũng đã nhiều lần khắc phục mâu thuẫn hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng không có kết quả. Anh, chị đã sống ly thân từ cuối năm 2019, từ đó đến nay hai bên không quan tâm, chăm sóc, lo lắng cho nhau nên đã vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng. Nay Chị C cương quyết xin ly hôn chứ không đồng ý chung sống với Anh D nữa. Từ những cơ sở nhận định và phân tích trên cho thấy mâu thuẫn giữa Chị C và Anh D đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nếu tiếp tục chung sống sẽ không có hạnh phúc. Do đó, Chị C yêu cầu được ly hôn là có căn cứ, phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, cần được chấp nhận.
- Về con chung: Chị C và Anh D xác định anh, chị không có con chung.
- Về tài sản và nợ chung: Chị C không yêu cầu Tòa án giải quyết. Còn Anh D thì yêu cầu giải quyết tài sản và nợ chung của vợ chồng xong rồi mới giải quyết việc ly hôn. Xét thấy trong quá trình giải quyết vụ án Anh D xác định về tài sản và nợ chung của vợ chồng, anh và Chị C tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết, tại phiên tòa Anh D mới yêu cầu giải quyết về tài sản và nợ chung là không có căn cứ để xem xét. Nếu sau này tài sản, nợ chung của vợ chồng anh và Chị C không thỏa thuận được với nhau thì Anh D có quyền khởi kiện thành một vụ kiện dân sự khác.
- Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị C yêu cầu xin ly hôn nên phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0005747 ngày 07/12/2020 của Chi Cục thi hành án dân sự huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 266, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự;
Khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;
Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Tuyên xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận cho Chị Phan Thị Ngọc C được ly hôn với Anh Huỳnh Văn D
2. Về con chung: Không có.
3. Về tài sản và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
4. Về án phí: Án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn Chị Phan Thị Ngọc C phải nộp là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0005747 ngày 07/12/2020 của Chi Cục thi hành án dân sự huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang.
Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 20/01/2021.
Bản án 05/2021/HNGĐ-ST ngày 20/01/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình - ly hôn
Số hiệu: | 05/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Giồng Riềng - Kiên Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 20/01/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về