Bản án 05/2021/HNGĐ-ST ngày 08/06/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG SƠN, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 05/2021/HNGĐ-ST NGÀY 08/06/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 08 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 05/2021/TLST – HNGĐ ngày 04 tháng 3 năm 2021 về ‘‘Ly hôn, tranh chấp về nuôi con’’ theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 05/2021/QĐXX- ST ngày 24/5/2021 giữa các đương sự :

1. Nguyên đơn: Chị Mai Thị Th, sinh năm 2002 (có mặt)

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn Q, sinh năm 1997 (có mặt)

Đều có địa chỉ: Thôn VN, xã ĐV, huyện ĐS, tỉnh Thanh Hóa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 22/02/2021 và bản tự khai ngày 12/4/2021 chị Mai Thị Thanh trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Văn Q kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện có tổ chức đám cưới vào ngày 11/9/2018 nhưng đến ngày 25/9/2020 thì mới đến UBND phường An Hưng, thành phố Thanh Hoá, tỉnh Thanh Hóa để đăng ký kết hôn và được UBND phường An Hưng, thành phố Thanh Hoá, tỉnh Thanh Hóa cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn.

Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc đến tháng 11/2020 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh Q đi làm không mang tiền về cho chị để nuôi con, tính nết anh Q thay đổi thất thường, không quan tâm đến vợ con mà còn thường xuyên gây sự đánh đập chị, không tôn trọng chị, chị và gia đình đã khuyên bảo anh Q nhiều lần nhưng không có kết quả, mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, cuộc sống chung không có hạnh phúc. Đến tháng 02/2021 chị và anh Q sống ly thân nhau cho đến nay, không quan tâm đến nhau nữa, tình cảm vợ chồng thực sự không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Q.

Về con chung: Chị Th và anh Q có 01 con chung cháu Nguyễn Ngọc Nhật A sinh ngày 22/7/2019. Từ trước đến nay cháu Nhật A đang ở cùng chị Th. Chị Thanh xin được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cháu Nhật A và chị Th không yêu cầu anh Q cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản, nợ: Chị Th không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản xác minh ngày 07/4/2021 tại nhà văn hoá thôn Văn Nam, xã Đông Văn, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hoá. Theo cung cấp của bà Nguyễn Thị B (là mẹ đẻ anh Q). Về hôn nhân : Anh Q và chị Th kết hôn năm 2018 đến năm 2020 mới làm thủ tục đăng ký kết hôn, sau khi kết hôn vợ chồng anh chị sinh sống cùng bà tại thôn Văn Nam, xã Đông Văn, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hoá. Vợ chồng chung sống được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn, mâu thuẫn như thế nào thì bà không rõ, bà có khuyên ngăn anh chị nhiều lần nhưng không có kết quả. Đến tháng 02/2021 chị Th và anh Q sống ly thân nhau cho đến nay. Quan điểm của bà là để anh chị tự giải quyết với nhau. Về con chung : Chị Th và anh Q có 01 con chung cháu Nguyễn Ngọc Nhật A sinh ngày 22/7/2019 nếu anh chị ly hôn bà đề nghị Toà án giải quyết theo quy định pháp luật. Về tài sản : Chị Th và anh Q không có tài sản gì. Về nợ bà không biết anh Q và chị Th có vay nợ ai không.

Tại bản tự khai ngày 12/4/2021 anh Nguyễn Văn Q trình bày: Anh Q thống nhất với ý kiến chị Th về thời gian và điều kiện kết hôn, nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng, anh cũng thừa nhận vợ chồng sống ly thân nhau, tình cảm vợ chồng không còn, không ai quan tâm đến ai. Nhưng anh không trình bày quan điểm chị Thanh xin ly hôn anh có đồng ý hay không đồng ý, anh cũng không trình bày nguyện vọng nuôi con và cấp dưỡng nuôi con, anh cũng không trình bày về tài sản và nợ.

Anh Q không chấp hành tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, Toà án triệu tập anh đến làm việc nhưng anh Q vắng mặt không có lý do.

Tại biên bản làm việc ngày 12/4/2021 bà Nguyễn Thị B (mẹ đẻ của anh Q) trình bày : Sau khi bà nhận được các giấy tờ và văn bản tố tụng của Toà án nhân dân huyện Đông Sơn thì bà đã gọi điện cho con trai bà là Nguyễn Văn Q về để giao cho Q các giấy tờ của Toà án anh Q đã nhận, khi anh Q lên Toà án làm việc đang làm việc thì có bức xúc với chị Th (là vợ anh Q) thì anh Q bỏ về không làm việc tiếp nữa.

Tại phiên toà Q trình bày : Anh Q xét thấy mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng , anh chị cũng đã sống ly thân nhau . Nay chị Th yêu cầu ly hôn anh đồng ý ly hôn với chị Th và đồng ý cho chị Th được trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc, giáo dục cháu Nhật A, anh không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Chị Th và anh Q có mặt tại phiên toà.

Ý kiến của kiểm sát viên: Thẩm phán và Hội đồng xét xử, Thư ký đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 51; Điều 55 Điều 81, 82 và 83 Luật hôn nhân gia đình để chấp nhận yêu cầu của chị Mai Thị Th được ly hôn anh Nguyễn Văn Q.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Khoản 1 Điều 51, Điều 55, 81, 82, 83 Luật hôn nhân gia đình. Khoản 4 Điều 147; Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự

- Về hôn nhân: : Chấp nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Mai Thị Th và anh Nguyễn Văn Q.

- Về con chung: Giao cháu Nguyễn Ngọc Nhật A sinh ngày 22/7/2019 cho chị Mai Thị Thanh tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng. Anh Q không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản và nợ: Chị Thanh và anh Q không yêu cầu Toà án giải quyết nên không xem xét.

- Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Chị Mai Thị Th có đơn đề nghị Tòa án nhân dân huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa giải quyết việc hôn nhân của chị và anh Nguyễn Văn Q, nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa theo quy định tại khoản 1 Điều 28 ; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự. Chị Th và anh Q có mặt tại phiên toà.

[2] Về hôn nhân: Chị Mai Thị Th và anh Nguyễn Văn Q kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện có tổ chức đám cưới vào ngày 11/9/2018 nhưng đến ngày 25/9/2020 thì mới đến UBND phường An Hưng, thành phố Thanh Hoá, tỉnh Thanh Hóa để đăng ký kết hôn và được UBND phường An Hưng, thành phố Thanh Hoá, tỉnh Thanh Hóa cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn. Vì vậy hôn nhân giữa chị Th và anh Q là hôn nhân hợp pháp.

Quá trình giải quyết vụ án, anh Q trình bày bản tự khai nhưng không trình bày quan điểm về hôn nhân, Tòa án đã tiến hành giao thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải cho anh Q, tuy nhiên sau khi nhận thông báo của Tòa án, anh Q không chấp hành các quy định của pháp luật tố tụng dân sự, không có ý kiến bằng văn bản gửi cho Tòa án và cũng không đến Tòa án để tham gia phiên hòa giải nên Tòa án không tiến hành phiên hòa giải được, như vậy anh đã làm mất đi cơ hội đoàn tụ của vợ chồng. Tại phiên toà, anh Q xét thấy mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, thực tế tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt đươc , anh chị cũng đã sống ly thân nhau. Nay chị Th xin ly hôn anh Q cũng đồng ý ly hôn với chị Thanh. Như vậy mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, nên áp dụng Điều 55 Luật hôn nhân gia đình chấp nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Thanh và anh Q là phù hợp.

[3] Về con chung: Chị Th và anh Q có 01 con chung là Nguyễn Ngọc Nhật A. Chị Th có nguyện vọng nuôi dưỡng và chăm sóc cháu Nhật A và không yêu cầu anh Q cấp dưỡng nuôi con, anh Q cũng đồng ý giao cháu Nhật A cho chị Th nuôi dưỡng và anh không phải cấp dưỡng nuôi con. Hội đồng xét xử xét thấy cháu Nhật A đang còn nhỏ và từ trước đến nay cháu đang ở với chị Th, hiện nay đang chị đang làm tại Công ty may Hoàng Long Thanh Hoá có mức lương thu nhập hàng tháng là 6.000.000 đồng còn anh Q không có thu nhập ổn định nên anh không cấp dưỡng nuôi con cùng chị. Hội đồng xét xử xét thấy để đảm bảo cho cháu Nhật ổn định cuộc sống, phát triển đầy đủ về thể chất, tinh thần. Nên chấp nhận yêu cầu của chị Thanh nên giao cháu Nhật A cho chị Th tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng. Anh Q không phải cấp dưỡng nuôi con, anh Q có quyền và nghĩa vụ chăm sóc con chung là phù hợp.

[4] Về tài sản, nợ: Chị Th, anh Q không yêu cầu giải quyết. Vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Chị Thanh phải chịu toàn bộ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Khoản 1 Điều 51, Điều 55, 81, 82, 83 Luật hôn nhân gia đình. Khoản 4 Điều 147 ; Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điểm a, khoản 1 Điều 24; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội.

Xử:

- Về hôn nhân: Chấp nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Mai Thị Th và anh Nguyễn Văn Q.

- Về con chung: Giao cháu Nguyễn Ngọc Nhật A sinh ngày 22/7/2019 cho chị Mai Thị Th tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng. Anh Q không phải cấp dưỡng nuôi con chung, anh Q có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được cản trở.

- Về tài sản, nợ : Chị Th và anh Q không yêu cầu Toà án giải quyết.

- Về án phí: Chị Mai Thị Th phải chịu 300.000đ án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị đã nộp là 300.000đ theo biên lai thu tiền số AA/2019/0008656 ngày 04/3/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Chị Th đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo:

Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

135
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 05/2021/HNGĐ-ST ngày 08/06/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:05/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Sơn - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về