Bản án 05/2020/HS-ST ngày 09/01/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 05/2020/HS-ST NGÀY 09/01/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 09 tháng 01 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 451/2019/TLST- HS ngày 13 tháng 12 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 485/2019/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 12 năm 2019, đối với bị cáo:

Nguyễn Thị Thu N (tên gọi khác B), sinh năm 1995 tại tỉnh Đồng Nai; thường trú: Ấp B, xã L, huyện L, tỉnh Bình Phước; chỗ ở: Khu phố T, phường D, thị xã D, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 11/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; con ông Nguyễn H, sinh năm 1972 và mẹ là Hồ Thị T, sinh năm 1976; có 03 em ruột, lớn nhất sinh năm 1998, nhỏ nhất sinh năm 2009; chồng Đỗ Mạnh C, sinh năm 1998 (chưa đăng ký kết hôn); có 01 con sinh năm 2019; tiền án: Không; tiền sự: Ngày 11/8/2017 bị Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 14 tháng tại Trung tâm giáo dục, lao động tạo việc làm tỉnh Bình Dương; bị bắt tạm giam ngày 27/9/2019, có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Hoàng Quang M, sinh năm 1978; địa chỉ: Tổ 60, phường Bồ Xuyên, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình; vắng mặt.

2. Bùi Văn T, sinh năm 1993; địa chỉ: Thôn Xanh, xã Cẩm Bình, huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Thị Thu N sử dụng ma túy đá, có tên khoa học là Methamphetamine; khoảng 17 giờ ngày 26/9/2019, N ở phòng VIP 5 nhà nghỉ Hương Lan, địa chỉ khu phố T, phường D, thị xã D và có Bùi Văn T đến chơi. Tại đây N dùng điện thoại di động hiệu VIVO V3 màu hồng, sim số 0374549131 gọi cho thanh niên tên A (chưa rõ nhân thân, lai lịch) hỏi mua ma túy. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, N nói T điều khiển xe mô tô chở N chạy đến khu vực chợ An Cơ, thuộc phường An Phú, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương; T dừng xe đứng chờ, còn N đi bộ vào trong chợ gặp tên An mua 01 gói ma túy đá, với giá 2.200.000 đồng và cất giấu vào trong túi xách đi ra, Tâm chở về phòng VIP 5 nhà nghỉ Hương Lan, còn Tâm đi công việc. Sau đó N lấy 01 phần ma túy, bỏ vào 04 gói hàn kín bằng nylon và N lấy một ít ma túy bỏ vào dụng cụ sử dụng ma túy. N lấy 01 gói ma túy cất vào túi quần đang mặc, còn 03 gói ma túy N bỏ vào trong túi xách bỏ trên giường. Lúc này, Bùi Thị T, Nguyễn Thị Kim P, Bùi Văn H và T lần lượt đến phòng VIP 5 cùng N sử dụng ma túy. Sau khi sử dụng ma túy xong thì T, P và H ra về trước, Hoàng Quang M đến chơi và cùng T tiếp tục sử dụng ma túy, còn N đi tắm. Đến khoảng 00 ngày 27/9/2019, lực lượng Công an kiểm tra hành chính phát hiện có 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy và ra lệnh khám xét khẩn cấp phòng VIP 5, phát hiện và thu giữ 01 gói nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng trong túi quần trái phía trước của N đang mặc, 01 gói ma túy trong túi xách màu xanh trên giường và 02 gói ma túy trong túi xách màu đen trên giường.

Vật chứng thu giữ: 04 gói ma túy; 01 điện thoại di động ViVo V3 màu hồng sim số 0374549131; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy; 01 túi xách màu xanh;

01 túi xách màu đen.

Tại kết luận giám định số 727/MT-PC09 ngày 02/10/2019 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bình Dương, kết luận:

Tinh thể màu trắng trong 01 gói nylon hàn kín là ma túy, có khối lượng 2,0115 gam (M1), loại Methamphetamine; Tinh thể màu trắng trong 01 gói nylon hàn kín là ma túy, có khối lượng 1,8262 gam (M2), loại Methamphetamine; Tinh thể màu trắng trong 01 gói nylon hàn kín là ma túy, có khối lượng 0,2485 gam (M3), loại Methamphetamine; Tinh thể màu trắng trong 01 gói nylon hàn kín là ma túy, có khối lượng 0,0789 gam (M4), loại Methamphetamine. Tổng trọng lượng 4,1651 gam.

Đi với thanh niên tên An bán ma túy cho Nguyễn Thị Thu N, do chưa xác định được lai lịch.

Đi với Bùi Văn T điều khiển xe mô tô chở Nguyễn Thị Thu N nhưng không biết N tàng trữ trái phép chất ma túy trong người nên không xử lý hình sự; đối với T là đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy, không có nơi cư trú ổn định nên lập hồ sơ đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Đi với Hoàng Quang M có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy nên ra Quyết định xử phạt hành chính và thông báo về địa phương để quản lý, giáo dục.

Tại cáo trạng số 06/CT–VKS- DA ngày 12 tháng 12 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Nguyễn Thị Thu N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Thu N mức án từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy 01 bỳ thư đã niêm phong bên trong có 1,3569 gam (M1), 1,4604 gam (M2), 0,1687 gam (M3), 0,0528 gam (M4) ma túy loại Methamphetamine là mẫu vật hoàn lại sau giám định; 01 bộ dụng cụ sử dụng trái phép chất ma túy; sim số 0374549131; 01 túi xách màu xanh; 01 túi xách màu đen.

Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động ViVo V3 màu hồng do bị cáo sử dụng vào việc phạm tội.

Tại phiên tòa, trong phần thực hiện nói lời sau cùng: Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng cũng không khiếu nại gì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Khoảng 00 giờ ngày 27/9/2019, lực lượng Công an kiểm tra hành chính phòng VIP 5 nhà nghỉ Hương Lan, địa chỉ khu phố T, phường D, thị xã D, tỉnh Bình Dương có Hoàng Quang M, Bùi Văn T, Nguyễn Thị Thu N và phát hiện có 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy, nên Cơ quan cảnh sát điều tra công an thị xã Dĩ An ra lệnh khám xét khẩn cấp và thu giữ 01 gói nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng trong túi quần trái phía trước của N đang mặc, 01 gói nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng trong túi xách màu đen trên giường và 02 gói nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng trong túi xách màu xanh trên giường và mời tất cả về làm việc. Quá trình làm việc, N khai nhận là ma túy mua về để sử dụng.

Vật chứng thu giữ: 04 gói ma túy; 01 điện thoại di động ViVo V3 màu hồng sim số 0374549131; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy; 01 túi xách màu xanh;

01 túi xách màu đen.

Tại kết luận giám định số 727/MT-PC09 ngày 02/10/2019 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bình Dương, kết luận: Tinh thể màu trắng trong 01 gói nylon hàn kín là ma túy, có khối lượng 2,0115 gam (M1), loại Methamphetamine; Tinh thể màu trắng trong 01 gói nylon hàn kín là ma túy, có khối lượng 1,8262 gam (M2), loại Methamphetamine; Tinh thể màu trắng trong 01 gói nylon hàn kín là ma túy, có khối lượng 0,2485 gam (M3), loại Methamphetamine; Tinh thể màu trắng trong 01 gói nylon hàn kín là ma túy, có khối lượng 0,0789 gam (M4), loại Methamphetamine. Tổng trọng lượng 4,1651 gam.

Hành vi của bị cáo tàng trữ tổng trọng lượng 4,1651 gam, loại chất Methamphetamine đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng số 06/CT–VKS- DA ngày 12 tháng 12 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương và luận tội của Kiểm sát viên đề nghị đối với bị cáo là có căn cứ đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do bị cáo thực hiện là nghiêm trọng đã trực tiếp xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với mức án tù tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến vai trò của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, đủ để giáo dục, cải tạo và có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa chung.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo; ăn năn hối cải là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[6] Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, đã bị áp dụng cai nghiện bắt buộc 02 lần vào năm 2015 và 2017 nhưng vẫn tái nghiện; và bị cáo phạm tội trong thời gian nuôi con dưới 12 tháng tuổi.

[7] Xử lý vật chứng:

- Xét 01 bỳ thư đã niêm phong bên trong có 1,3569 gam (M1), 1,4604 gam (M2), 0,1687 gam (M3), 0,0528 gam (M4) ma túy loại Methamphetamine là mẫu vật hoàn lại sau giám định; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy; sim số 0374549131; 01 túi xách màu xanh; 01 túi xách màu đen thu giữ trong vụ án cần tuyên tịch thu tiêu hủy.

- Xét 01 điện thoại di động ViVo V3 màu hồng do bị cáo sử dụng vào việc phạm tội cần tuyên tịch thu sung ngân sách nhà nước [8] Mức hình phạt như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp nên chấp nhận.

[9] Đối với thanh niên tên An bán ma túy cho Nguyễn Thị Thu N, chưa xác định được lai lịch, tiếp tục điều tra xác minh sẽ tiến hành xử lý sau.

[10] Đối với Bùi Văn Tâm điều khiển xe mô tô chở Nguyễn Thị Thu N, không biết N tàng trữ trái phép chất ma túy, nên không có căn cứ xử lý hình sự.

[11] Đối với Hoàng Quang M có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy nên ra Quyết định xử phạt hành chính và thông báo về địa phương để quản lý, giáo dục.

[12] Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Thu N phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Thu N 03 (ba) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 27/9/2019.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a, khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

- Tịch thu tiêu hủy 01 bỳ thư đã niêm phong bên trong có 1,3569 gam (M1), 1,4604 gam (M2), 0,1687 gam (M3), 0,0528 gam (M4) ma túy loại Methamphetamine mẫu vật hoàn lại sau giám định; 01 bộ dụng cụ sử dụng trái phép chất ma túy; sim số 0374549131; 01 túi xách màu xanh; 01 túi xách màu đen.

hồng.

- Tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động ViVo V3 màu (Biên bản giao nhận vật chứng ngày 12/12/2019, bút lục 102).

3. Án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Thị Thu N phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

472
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 05/2020/HS-ST ngày 09/01/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:05/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về