Bản án 05/2020/HS-ST ngày 02/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN M - TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 05/2020/HS-ST NGÀY 02/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 02 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện M xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 03/2020/TLST-HS, ngày 01/10/2020, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 05/2020/ QĐXXST-HS ngày 20/10/2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lỳ Mò H - tên gọi khác: Không - giới tính: Nam Sinh năm 1983, tại xã C, huyện M, tỉnh Lai Châu.

Nơi cư trú: Bản N, xã C, huyện M, tỉnh Lai Châu; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Hà Nhì; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 9/12.

Con ông Lỳ Phù H, đã chết; và con bà Lỳ Chờ N, đã chết; Anh chị em ruột: Bị cáo có 07 anh em, bị cáo là con út trong gia đình; Bị cáo chưa có vợ.

Tiền án: Bị cáo có 01 tiền án. Ngày 26/6/2017, Lỳ Mò H bị Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Lai Châu xét xử về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 (Sửa đổi, bổ sung năm 2009), xử phạt 01 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giam là ngày 08/3/2017; bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Ngày 26/9/2018, bị cáo đã thi hành xong khoản án phí hình sự sơ thẩm. Ngày 08/9/2018 Trại giam Hồng Ca đã cấp giấy chứng nhận chấp hành xong án phạt tù cho Lỳ Mò H. Tính đến thời điểm phạm tội mới là ngày 02/6/2020, bị cáo chưa được xóa án tích.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 02/6/2020 đến ngày 11/6/2020, bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 11/6/2020 đến nay, tại xã C, huyện M, tỉnh Lai Châu. Tiền sự: Không. Có mặt tại phiên tòa.

* Người bào chữa cho bị cáo: Ông Lê Mạnh Hùng, Trợ giúp viên - Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Lai Châu. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 07 giờ ngày 02/6/2020, Lỳ Mò H, sinh năm 1983, trú tại: bản N, xã C, huyện M một mình điều khiển xe mô tô của H từ nhà H thuộc bản N, xã C đến Trung tâm y tế huyện M để uống Methadone. Đến khoảng 08 giờ cùng ngày, sau khi uống Methadone xong, H một mình điều khiển xe mô tô lên khu vực bản Pa M, xã H, huyện N, tỉnh Lai Châu để tìm mua Heroine về sử dụng. Khi đến bản Pa M, H để xe mô tô ở đầu bản rồi đi bộ vào trong bản P. Trên đường đi, H gặp và mua được của một người đàn ông dân tộc Mông lạ mặt 03 gói Heroine, mỗi gói đều được gói bằng mảnh nilon màu xanh với giá 600.000 đồng. Nhận được Heroine, H cầm trên tay rồi đi bộ quay lại chỗ để xe mô tô trước đó. Khi đến chỗ xe mô tô, H nhặt được 01 mảnh nilon màu xanh ở ven đường rồi dùng mảnh nilon này gói tất cả 03 gói Heroine nêu trên lại. Sau đó H cất giấu toàn bộ số Heroine này vào trong túi quần bên phải đang mặc rồi một mình điều khiển xe mô tô về nhà.

Đến 10 giờ 25 phút cùng ngày, khi Hừ đến Km 92, tỉnh lộ 127 thuộc địa phận bản Nậm H, xã C, huyện Mường, tỉnh Lai Châu thì gặp tổ công tác Công an xã C yêu cầu dừng xe để kiểm tra. Quá trình kiểm tra, tổ công tác đã phát hiện bên trong túi quần bên phải mà H đang mặc có 01 gói nilon màu xanh, bên trong có 03 gói nilon màu xanh đều chứa Heroine của H.Trước sự việc trên, tổ công tác đã mời người chứng kiến và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ toàn bộ vật chứng gồm: 01 gói nilon màu xanh, bên trong có 03 gói nilon màu xanh đều chứa Heroine và 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại xe WAVES, màu đen, trắng, biển kiểm soát 25M1-049.57 để điều tra làm rõ.

Tại kết luận giám định số 20/KLGĐ ngày 02/6/2020 của Công an huyện M, tỉnh Lai Châu xác định: Tổng 03 gói vật chứng thu giữ của Lỳ Mò H có khối lượng là 1,27 gam; Kết luận giám định số 264/GĐ-KTHS ngày 11/6/2020 của h ng k thuật hình sự - Công an tỉnh Lai Châu kết luận: 03 mẫu chất bột màu trắng (ký hiệu Gói 01, Gói 02, Gói 03) gửi giám định là ma túy, loại Heroine.

Cáo trạng số 58/CT-VKS-MT ngày 01/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện M đã truy tố bị cáo Lỳ Mò H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Tại phiên t a, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện M, trong phần tranh luận giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Lỳ Mò H và đề nghị Hội đồng xét xử, tuyên bố bị cáo Lỳ Mò H phạm tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng theo điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51,Điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38, Điều 50 BLHS, xử phạt bị cáo Lỳ Mò H từ 01 năm 08 tháng đến 02 năm tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Vật chứng vụ án đề nghị áp dụng điểm c khoản 1, khoản 2 Điều 47 BLHS;

điểm a, c khoản 2 Điều 106 BLTTHS. Chất ma túy 1,27 gam Heroine thu giữ khi bắt quả tang Lỳ Mò H, đã gửi đi giám định 0,53 gam (Không hoàn lại đối tượng giám định). Đề nghị tịch thu tiêu hủy 0,74 gam Heroine vật chứng còn lại sau giám định; 04 mảnh nilon màu xanh còn lại sau khi xác định khối lượng vật chứng thu giữ của Lỳ Mò H; Trả 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại xe WAVES, màu đen, trắng, biển kiểm soát 25M1-049.57 cho bị cáo Lỳ Mò H. Về án phí HSST áp dụng điểm đ khoản 1 điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án. Hoàn cảnh bị cáo khó khăn, bị cáo sinh sống ở bản N, xã C, ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn đề nghị HĐXX xem xét miễn án phí HSST cho bị cáo.

* Người bào chữa cho bị cáo: Nhất trí quan điểm truy tố đối với bị cáo Lỳ Mò H phạm tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự; Đề nghị Áp dụng điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015. Đề nghị HĐXX xử phạt bị cáo với mức án thấp của khung hình phạt; Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo. Về xử lý vật chứng đề nghị trả 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại xe WAVES, màu đen, trắng, biển kiểm soát 25M1-049.57 cho bị cáo Lỳ Mò H. Về án phí hình sự sơ thẩm áp dụng điểm đ khoản 1 điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo là dân tộc thiểu số, hoàn cảnh khó khăn, sinh sống ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn đề nghị HĐXX xem xét miễn nộp án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo.

Đi với người đàn ông dân tộc Mông lạ mặt đã bán Heroine cho bị cáo Lỳ Mò H. Quá trình điều tra không xác định được lai lịch người đàn ông dân tộc Mông này nên không có cơ sở xem xét xử lý.

Tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến tranh luận, nhất trí lời luận tội và luận cứ bào chữa cho bị cáo. Lời nói sau cùng bị cáo: Bị cáo vi phạm pháp luật và biết lỗi sai phạm của mình về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt với mức án thấp.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ qua Điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện M, Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của BLTTHS. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, không có ai ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan Điều tra. Đủ cơ sở khẳng định bị cáo Lỳ Mò H, sinh năm 1983, với mục đích mua chất ma túy Heroine mang về để sử dụng (Hít). Đến 10 giờ 25 phút ngày 02/6/2020, khi Hừ đến Km 92, tỉnh lộ 127 thuộc địa phận bản Nậm H, xã C, huyện M, tỉnh Lai Châu thì gặp tổ công tác Công an xã C yêu cầu dừng xe để kiểm tra. Quá trình kiểm tra, tổ công tác đã phát hiện bên trong túi quần bên phải mà H đang mặc có 01 gói nilon màu xanh, bên trong có 03 gói nilon màu xanh đều chứa Heroine của H với khối lượng là 1,27 gam Heroine. Công an xã C đã mời người chứng kiến và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ 01 gói nilon màu xanh, bên trong có 03 gói nilon màu xanh đều chứa Heroine, 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại xe WAVES, màu đen, trắng, biển kiểm soát 25M1-049.57 của bị cáo, bị cáo đã dùng chiếc xe mô tô làm phương tiện đi mua chất ma túy. Như vậy hành vi của bị cáo Lỳ Mò H đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Tại điều luật qui định:

1. Người nào Tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán,vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. .....

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”. ….

Bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện M, tỉnh Lai Châu truy tố bị cáo Lỳ Mò H theo tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” như trên là có căn cứ, đúng người, đúng hành vi bị cáo.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến những quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng các chất ma tuý, gây mất trật tự an toàn xã hội tại địa phương, bị cáo nhận thức được điều đó, nhưng vì mục đích tư lợi, bị cáo đã mua chất ma túy Heroine sử dụng bị cáo là nghiện chất ma túy lâu năm, khi bị bắt bị cáo Lỳ Mò H tàng trữ trái phép chất ma túy có tổng khối lượng 1,27 gam Heroine, nên bị cáo phải chịu trách nhiệm với hành vi của mình. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, vì vậy bị cáo phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về hậu quả do hành vi mình đã thực hiện. Hội đồng xét xử cần phải áp dụng một mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để răn đe giáo dục đối với bị cáo.

[4] Tuy nhiên khi lượng hình Hội đồng xét xử cần phải xem xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.

Xét về nhân thân bị cáo chưa có tiền sự, bị cáo Lỳ Mò H có 01 tiền án. Ngày 26/6/2017 bị Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Lai Châu xét xử về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 (Sửa đổi, bổ sung năm 2009), bị xử phạt 01 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giam là ngày 08/3/2017. Đến ngày 26/9/2018 H đã thi hành xong khoản án phí hình sự sơ thẩm, ngày 08/9/2018 bị cáo H chấp hành xong án phạt tù trở về địa phương, tính từ khi chấp hành xong đến thời điểm phạm tội mới bị cáo H chưa được xóa án tích; Bị cáo H sinh sống tại ở bản N, xã C, huyện M, tỉnh Lai Châu, lao động làm nghề trồng trọt. Bị cáo có nhân thân xấu là người nghiện chất ma túy lâu năm, sau khi chấp hành xong trở về địa phương bị cáo không tự sửa chữa, lỗi lầm, mà vẫn tiếp tục đi theo con đường cũ, không tự cải tạo mình để trở thành người có ích cho gia đình và xã hội. Bị cáo Lỳ Mò H có 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. HĐXX cần áp dụng theo điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS đối với bị cáo Hừ. Về tình tiết giảm nhẹ bị cáo đã khai báo thành khẩn, ăn năn về hành vi phạm tội của mình, sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế khó khăn đây là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS.

[5] Hình phạt bổ sung: Tại khoản 5 điều 249 BLHS bị cáo còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, xét thấy hoàn cảnh kinh tế của bị cáo khó khăn, không có tài sản, không có điều kiện thi hành, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: Chấp nhận một phần đề nghị của Kiểm sát viên và người Bào chữa, số ma túy 0,74 gam Heroine vật chứng còn lại sau giám định và 04 mảnh nilon còn lại sau khi xác định khối lượng vật chứng cần tịch thu tiêu hủy; HĐXX không chấp nhận một phần ý kiến đề nghị của Kiểm sát viên và người Bào chữa về việc trả chiếc xe mô tô cho bị cáo, vì bị cáo H đã dùng chiếc xe mô tô của mình nhãn hiệu HONDA, loại xe WAVES, màu đen, trắng, biển kiểm soát 25M1-049.57 đây là phương tiện dùng vào việc phạm tội đối với hành vi bị cáo tàng trữ chất ma túy, do đó cần tịch thu sung công qu Nhà Nước, HĐXX căn cứ theo điểm a, c khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a, c khoản 2 Điều 106 BLTTHS.

[7] Án phí hình sự sơ thẩm: Xét thấy bị cáo H có hoàn cảnh khó khăn, sinh sống ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. HĐXX căn cứ áp dụng điểm đ khoản 1 điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xem xét miễn nộp án phí đối với bị cáo.

[8] Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại các điều 331; điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 50; điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự. Điểm a, c khoản 2 Điều 106; Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1.Tuyên bố bị cáo Lỳ Mò H phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Xử phạt bị cáo Lỳ Mò H 01(Một) năm 09 (Chín) tháng tù. Bị cáo được khấu trừ thời gian tạm giữ là 09 ngày (từ ngày 02/6/2020 đến ngày 11/6/2020) . Thời hạn tù còn lại tính từ ngày bị cáo đi chấp hành hình phạt tù.

2.Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 0,74 gam Heroine vật chứng còn lại sau giám định và 04 mảnh nilon màu xanh còn lại sau khi xác định khối lượng; Tịch thu sung công qu Nhà nước 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại xe WAVES, màu đen, trắng, biển kiểm soát 25M1-049.57 của Lỳ Mò Hừ, hiện vật chứng vụ án đã chuyển sang Chi cục Thi hành án dân sự huyện M, tỉnh Lai Châu.

3. Về án phí: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lỳ Mò Hừ.

4. Án xử công khai có mặt bị cáo. Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án lên Toà án nhân dân tỉnh Lai Châu để xem xét theo thủ tục phúc thẩm. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

219
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 05/2020/HS-ST ngày 02/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:05/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường Tè - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về