Bản án 05/2019/KDTM-ST ngày 04/07/2019 về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 05/2019/KDTM-ST NGÀY 04/07/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA

Ngày 04 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án kinh doanh thương mại thụ lý số 04/2019/TLST-KDTM ngày 27 tháng 3 năm 2019 về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 07/2019/QĐXXST-KDMT ngày 31 tháng 5 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 06/2019/QĐST-KDTM ngày 18 tháng 6 năm 2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Công ty trách nhiệm hữu hạn sản xuất thương mại PQ

Địa chỉ trụ sở: ấp 4, xã C, huyện Đ, tỉnh Long An

Người đại diện theo pháp luật: Bà Dương Thị Thu Ph – chức vụ: Giám đốc.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Hồ Gia Kh, sinh năm 1989; Địa chỉ: ấp T, xã B, huyện T, tỉnh Tiền Giang. (Văn bản ủy quyền ngày 11/03/2019)

2. Bị đơn: Công ty Cổ phần mía đường HH.

Địa chỉ trụ sở: khu vực 1, thị trấn H, huyện N, tỉnh Long An.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Kumar Arunachalam M – Chức vụ: Chủ tịch Hội đồng quản trị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 26/3/2019, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, ông Hồ Gia Kh là đại diện theo ủy quyền của Công ty trách nhiệm hữu hạn sản xuất thương mại PQ (viết tắt là Công ty PQ) trình bày: Ngày 12/11/2017, Công ty PQ và Công ty cổ phần mía đường HH (viết tắt là Công ty HH) có ký kết hợp đồng kinh tế số 349/ HĐ-MBHH-P.CƯVT về mua bán bao PP/PE in chữ, tổng giá trị hợp đồng là 1.608.750.000 đồng. Thực hiện theo hợp đồng nêu trên, Công ty PQ đã giao hàng và xuất hóa đơn giá trị gia tăng (GTGT) số 000068 ngày 15/4/2015 cho Công ty HH với số tiền là 244.208.250 đồng. Ngày 15/5/2016, Công ty HH có thanh toán cho Công ty PQ được 100.000.000 đồng.

Ngày 09/6/2016, Hai bên có làm biên bản đối chiếu công nợ xác nhận số tiền mà Công ty HH còn nợ Công ty PQ là 144.208.250 đồng. Công ty PQ đã nhiều lần liên hệ để thu hồi nợ, nhưng Công ty HH vẫn không thanh toán được. Nay Công ty PQ khởi kiện yêu cầu Công ty HH phải có nghĩa vụ thanh toán số tiền hàng hóa còn nợ là 144.208.250 đồng.

Từ khi thụ lý vụ kiện, Toà án tiến hành niêm yết tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho bị đơn là Công ty cổ phần mía đường HH như: thông báo về việc thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng bị đơn vẫn vắng mặt, không có ý kiến trình bày đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và Tòa án không thể tiến hành hoà giải được.

Về chứng cứ của bị đơn là Công ty cổ phần mía đường HH: Công ty HH luôn vắng mặt nên không xuất trình chứng cứ, đồng thời không tiến hành hoà giải được cũng như không thực hiện được quyền tranh luận tại Toà để chứng minh cho quyền lợi của mình là lỗi của bị đơn. Ngày 22/4/2019, đại diện của nguyên đơn có đơn yêu cầu không tiến hành hòa giải vụ án, nên căn cứ khoản 4 Điều 207 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án không tiến hành hòa giải vụ kiện được. Sau khi tiến hành các thủ tục niêm yết công khai Toà sơ thẩm đưa ra xét xử vụ án theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu:

Về thủ tục tố tụng: quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã tuân thủ quy định của pháp luật tố tụng dân sự và những người tham gia tố tụng trong vụ án chấp hành pháp luật kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án.

Về nội dung: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, ý kiến trình bày của đại diện nguyên đơn có đủ căn cứ xác định Công ty HH còn nợ tiền hàng hóa của Công ty PQ là 144.208.250 đồng theo hợp đồng kinh tế số 349/HĐ-MBHH-P.CƯVT ngày 12/11/2014, nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty PQ; Buộc Công ty HH có nghĩa vụ thanh toán số tiền hàng còn nợ là 144.208.250 đồng cho Công ty PQ.

 Tại phiên Tòa, Công ty HH được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2, nhưng vẫn vắng mặt. Đại diện của nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện như đã trình bày.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng và thẩm quyền giải quyết vụ án: Công ty PQ khởi kiện Công ty HH thanh toán số tiền còn nợ theo theo hợp đồng kinh tế số 349/HĐ-MBHH-P.CƯVT ngày 12/11/2014. Cả hai công ty đều có đăng ký kinh doanh, việc mua bán hàng hóa giữa hai công ty là đều có mục đích lợi nhuận và Công ty HH có trụ sở đang hoạt động tại khu vực 1, thị trấn H, huyện N, tỉnh Long An theo văn bản xác nhận số 37/SKHĐT-ĐKKD ngày 25/3/2019 của Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Long An. Quan hệ pháp luật là “Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa”. Tòa án huyện Đức Hòa thụ lý vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 30 của Bộ luật tố tụng dân sự. Vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết vụ án theo thủ tục sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Bị đơn là Công ty HH được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ 02, nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, nên căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[3] Về nội dung tranh chấp:

[3.1] Căn cứ theo lời trình bày, các tài liệu, chứng cứ của đại diện nguyên đơn cung cấp thì xác định giữa Công ty PQ và Công ty HH có xác lập hợp đồng kinh tế số 349/HĐ-MBHH-P.CƯVT ngày 12/11/2014 được xác lập theo quy định tại Điều 24 của Luật Thương mại năm 2005, nên Hội đồng xét xử nhận định đây là hợp đồng hợp pháp, là căn cứ để giải quyết về quyền và nghĩa vụ của các bên.

[3.2] Căn cứ vào hợp đồng kinh tế số 349 nêu trên, tại Mục 6. Phương thức thanh toán có thỏa thuận : “ Thời hạn thanh toán: Bên A (Công ty HH) sẽ thanh toán bằng chuyển khoản cho bên B (Công ty PQ) trong vòng 30 ngày theo từ đợt giao hàng, kể từ ngày nhận hàng và hóa đơn...” Thực hiện hợp đồng kinh tế 349 nêu trên. Công ty PQ đã giao hàng cho Công ty HH thể hiện việc Công ty PQ đã xuất Hóa đơn giá trị gia tăng số 0000368 ngày 15/04/2015, với số tiền là 244.208.250 đồng. Công ty PQ cũng xác nhận Công ty HH đã trả được 100.000.000 đồng, nên tại biên bản đối chiếu công nợ ngày 09/6/2016, phía Công ty HH cũng đã xác định lại số tiền nợ hàng đối với hóa đơn giá trị gia tăng nêu trên cho Công ty PQ là 144.208.250 đồng. Nhưng đến nay, Công ty HH vẫn không thanh toán tiền nợ hàng hóa này cho Công ty PQ là vi phạm thỏa thuận tại mục 6 của hợp đống kinh tế số 349. Do đó, Công ty PQ khởi kiện yêu cầu Công ty HH phải thanh toán tiền nợ hàng hóa là 144.208.250 đồng là có căn cứ, nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Xét lời đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ, nên được chấp nhận.

[5] Về lãi suất chậm thi hành án: Công ty HH phải chịu theo quy định tại Điều 306 của Luật Thương mại năm 2005.

[6] Về án phí: Căn cứ vào Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và Điều 26 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án; Buộc bị đơn là Công ty HH phải chịu 7.210.400 đồng (đã làm tròn số) tiền án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm sung vào ngân sách nhà nước. Nguyên đơn không phải chịu án phí do yêu cầu khởi kiện được chấp nhận. Hoàn trả số tiền tạm ứng án phí cho nguyên đơn.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 5, Điều 30, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 178, Điều 179, Điều 227, Điều 228, Điều 483 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 24, Điều 50, Điều 306 của Luật thương mại năm 2005; Điều 6, Điều 26 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty trách nhiệm hữu hạn sản xuất thương mại PQ về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa” đối với Công ty cổ phần mía đường HH;

Buộc Công ty cổ phần mía đường HH phải trả cho Công ty trách nhiệm hữu hạn sản xuất thương mại PQ số tiền hàng hóa còn nợ là 144.208.250 đồng (Một trăm bốn bốn triệu hai trăm lẻ tám nghìn hai trăm năm mươi đồng).

2. Về lãi suất chậm thi hành án: Khi án có hiệu lực pháp luật và có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành, bên có nghĩa vụ phải thi hành án mà chậm thi hành án thì bên được thi hành án có quyền yêu cầu tính lãi trên số tiền chậm trả theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có qui định khác.

3. Về án phí:

3.1 Buộc Công ty cổ phần mía đường HH phải nộp 7.210.400 đồng đồng (Bảy triệu hai trăm mười nghìn bốn trăm đồng, đã làm tròn số) tiền án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm sung ngân sách nhà nước.

3.2 Công ty trách nhiệm hữu hạn sản xuất thương mại PQ không phải chịu tiền án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm. Hoàn lại số tiền tạm ứng án phí cho Công ty trách nhiệm hữu hạn sản xuất thương mại PQ là 3.605.000 đồng (Ba triệu sáu trăm lẻ năm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0004345 ngày 27/3/2019 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.

4. Án xử sơ thẩm công khai, nguyên đơn có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án; Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày được Tòa án tống đạt hợp lệ bản án.

5. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 của Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a và Điều 9 của Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

410
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 05/2019/KDTM-ST ngày 04/07/2019 về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa

Số hiệu:05/2019/KDTM-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An
Lĩnh vực:Kinh tế
Ngày ban hành: 04/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về