Bản án 05/2018/HS-ST ngày 20/03/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẮC KẠN, TỈNH BẮC KẠN

BẢN ÁN 05/2018/HS-ST NGÀY 20/03/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 20 tháng 3 năm 2018 tại Hội trường xét xử của Tòa án nhân dân thành phố Bắc Kạn. Xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 03/2018/TLST-HS ngày 06 tháng 02 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2018/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 3 năm 2018 đối với bị cáo:

Vũ Cường Q - sinh ngày 07 tháng 4 năm 1995 tại huyện BT, tỉnh Bắc Kạn

Nơi cư trú: Thôn N, xã C, huyện BT, tỉnh Bắc Kạn; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: Lớp 9/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Thanh V, sinh năm 1967 và bà Vương Thị X, sinh năm 1968; vợ Hứa Thị H, sinh năm 1995; Con: Có 01 con sinh năm 2014; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị cáo được tại ngoại (Có mặt tại phiên tòa).

- Người tham gia tố tụng khác:

1. Người bị hại: Chị Phạm Thị H1 – SN 1977, trú tại: Tổ 10, phường S, thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn (Vắng mặt).

2. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Đức T – SN 1977, trú tại: Tổ 6, phường S, thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn (Vắng mặt).

3. Người làm chứng: Anh Vũ Công Th – SN 1987, trú tại: Thôn N, xã Dương Quang, thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 12/11/2017, Vũ Cường Q một mình đi bộ quanh khu vực phường Sông Cầu, thành phố Bắc Kạn với mục đích lợi dụng sơ hở của người dân để trộm cắp tài sản đem bán lấy tiền chi tiêu cá nhân. Khoảng 14 giờ cùng ngày Q đi bộ qua trước cửa nhà chị Phạm Thị H1, sinh năm 1977, trú tại: Tổ 10, phường S, thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn và nhặt được một chiếc bao tải màu xanh ở hàng rào gần nhà chị H1. Q quan sát thấy cổng và cửa chính nhà chị H1 không đóng, trong nhà không có ai, đồng thời thấy chiếc ti vi màu đen nhãn hiệu Panasonic 39XN5V, loại 39 inch để trên kệ gỗ trong phòng khách Q đi vào gần kệ gỗ rút các rắc cắm của ti vi rồi trùm bao tải lên ti vi, sau đó bê ti vi ra khỏi nhà chị H1 rồi lội qua sông Cầu. Khi đến đoạn đường thuộc thôn Nà Ỏi, xã Dương Quang, thành phố Bắc Kạn, Q gặp anh Vũ Công Th đi xe mô tô qua. Q xin anh Th cho đi nhờ, anh Th đồng ý chở Q cùng chiếc ti vi đến khu vực chợ Quang Sơn thuộc tổ 13, phường Sông Cầu, thành phố Bắc Kạn thì Q xuống xe tìm thuê xe ôm nhưng không được. Sau đó Q tiếp tục đi nhờ xe mô tô của một người đàn ông không quen biết đến cửa hàng sửa chữa ti vi của anh Nguyễn Đức T, rồi thỏa thuận bán chiếc ti vi cho anh T. Anh T đồng ý mua chiếc ti vi với giá 2.500.000đ (Hai triệu năm trăm nghìn đồng) anh T đã trả cho Q 2.000.000đ (Hai triệu đồng), còn 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng) hẹn Q ngày hôm sau đến lấy. Q nhận tiền rồi đi đến cửa hàng điện thoại của chị Doãn Thị T1, sinh năm 1976, trú tại: Tổ B, phường Đức Xuân, thành phố Bắc Kạn mua lại chiếc điện thoại di động mà Q đã bán cho chị T1trước đó hết 1.250.000đ (Một triệu hai trăm năm mươi nghìn đồng) rồi Q đi xe Bus về nhà. Số tiền còn lại Q chi tiêu cá nhân hết.

Tại kết luận định giá tài sản ngày 26/12/2017 của Hội đồng định giá tài sản thành phố Bắc Kạn kết luận: “01 (Một) chiếc ti vi nhãn hiệu PANASOIC 39 XN5V loại 39 in, màu đen đã qua sử dụng. Trị giá là 2.500.000đ (Hai triệu năm trăm nghìn đồng)”.

Quá trình điều tra, truy tố, Vũ Cường Q đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai của Vũ Cường Q phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác.

Bản cáo trạng số: 04/KSĐT ngày 06/02/2018 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn đã truy tố Vũ Cường Q về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 điều 138 BLHS 1999. Tại phiên Tòa đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng Xét xử áp dụng khoản 1 điều 138; điểm b, h, p khoản 1, khoản 2 điều 46; điều 60 BLHS 1999 xử phạt bị cáo Vũ Cường Q từ 6 đến 9 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 đến 18 tháng, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng áp dụng điều 47 BLHS 2015 và điều 106 BLTTHS 2015.

+ Trả lại cho bị cáo Q 01chiếc áo sơ mi len màu trắng – đỏ dài tay cổ trái tim; 01 chiếc quần dài thể thao màu đen xám.

Tuyên bị cáo phải chịu án phí.

Tại phần tranh luận bị cáo không có tranh luận với luận tội của Viện kiểm sát. Bị cáo nói lời sau cùng xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo hưởng mức án nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận của Vũ Cường Q tại phiên tòa. Khoảng 14 giờ ngày 12/11/2017 tại nhà chị Phạm Thị H1, sinh năm 1977; trú tại: Tổ 10, phường Sông Cầu, thành phố Bắc Kạn, Vũ Cường Quốc đã có hành vi trộm cắp 01 chiếc ti vi màu đen nhãn hiệu Panasonic 39XN5V, loại 39 inch, trị giá 2.500.000đ (Hai triệu năm trăm nghìn đồng) của gia đình chị H1. Sau đó Q đem bán chiếc ti vi cho anh Nguyễn Đức T sinh năm 1977; trú tại: Tổ 6 phường Sông Cầu, thành phố Bắc Kạn được 2.000.000đ (Hai triệu đồng) Q đã sử dụng hết số tiền đó vào việc chi tiêu cá nhân.

Lời khai của bị cáo cơ bản phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.

Hội đồng xét xử xét thấy có đủ căn cứ xác định việc truy tố, xét xử bị cáo Vũ Cường Q về tội “ Trộm cắp tài sản”; theo khoản 1 Điều 138 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[2] Đối với đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên Tòa là có căn cứ và phù hợp với tính chất của vụ án, phù hợp với quy định của pháp luật nên cần được áp dụng khi quyết định.

[3] Xét tính chất, hành vi thực hiện của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm tài sản của người khác, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự ở địa phương. Cần xử lý nghiêm nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

Xét nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt không có tiền án, tiền sự.

Về tình tiết tặng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào.

Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo Q “Thành khẩn khai báo”, “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” bị cáo đã “ Bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả” nên bị cáo được hưởng 03 tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điểm b, p, h Khoản 1 Điều 46 BLHS. Bị cáo có ông nội là Vũ Thanh L được Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam tặng Huy hiệu 40 năm tuổi Đảng do vậy cần được xem xét khi quyết định hình phạt. Bị cáo có nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ do vậy cần áp dụng điều 60 BLHS cho bị cáo được hưởng án treo.

Về trách nhiệm dân sự:

Ngày 14/12/2017, Vũ Cường Q đã tự nguyện trả lại cho anh Nguyễn Đức T số tiền 2.000.000đ (Hai triệu đồng). Nay anh T không có yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Ngày 21/12/2017, chị Phạm Thị H1đã nhận lại chiếc ti vi màu đen nhãn hiệu Panasonic 39XN5V, loại 39 inch và không yêu cầu Vũ Cường Q phải bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với anh Vũ Công Th , sinh năm 1987, trú tại: Thôn Nà Dì, xã Dương Quang , thành phố Bắc Kạn là người đã cho Vũ Cường Q đi nhờ xe mô tô và anh Nguyễn Đức T, sinh năm 1977, trú tại: Tổ 6, phường Sông Cầu, thành phố Bắc Kạn, là người đã mua chiếc ti do Vũ Cường Q trộm cắp vào ngày 12/11/2017, quá trình điều tra xác định khi anh Th cho Quốc đi nhờ xe và khi anh T mua chiếc ti vi với Q thì anh Th, anh T đều không biết chiếc ti vi đó là tài sản do Q trộm cắp mà có. Do đó Cơ quan điều tra không xem xét xử lý đối với anh Th và anh T là đúng quy định.

Về vật chứng áp dụng điều 47 Bộ luật hình sự 2015 và điều 106 BLTTHS 2015.

Trả lại cho bị cáo Q 01chiếc áo Sơ mi len màu trắng – đỏ dài tay cổ trái tim; 01 chiếc quần dài thể thao màu đen xám. 01 (Một) chiếc bao tải màu xanh mà Vũ Cường Q đã sử dụng để trùm lên chiếc ti vi trộm cắp được vào ngày 12/11/2017, khi đến cửa hàng sửa chữa ti vi của anh Nguyễn Đức T thì Q đã vứt bỏ chiếc bao tải ở ngoài đường, sau đó không nhặt lại nên Cơ quan điều tra không thu giữ được.

Đối với chị Doãn Thị T1, sinh năm 1976, trú tại: Tổ B, phường Đức Xuân, thành phố Bắc Kạn, quá trình điều tra xác định chị T1 không biết số tiền 1.250.000đ (Một triệu hai trăm năm mươi nghìn đồng) Vũ Cường Q sử dụng để mua lại chiếc điện thoại là tiền có được do phạm tội mà có, số tiền trên chị T1đã sử dụng hết vào việc kinh doanh, giao dịch mua bán giữa chị T1và Q là giao dịch dân sự. Do vậy, Cơ quan điều tra không xem xét xử lý đối với chị T1, không truy thu số tiền nói trên là có căn cứ.

* Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[5] Các hành vi tố tụng của Điều tra viên, Kiểm Sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đảm bảo đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

* Tuyên bố: Bị cáo Vũ Cường Q phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng: Khoản 1 Điều 138; điểm b, p, h Khoản 1 điều 46; Điều 60 của Bộ luật hình sự năm 1999.

- Xử phạt: Bị cáo Vũ Cường Q 09 (Chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 (Mười tám) tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo cho UBND xã Cẩm Giàng, huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự. Không phạt bổ sung (Phạt tiền) đối với bị cáo.

* Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS 2015 và điều 106 BLTTHS 2015.

Trả lại cho bị cáo 01 (Một) chiếc áo sơ mi len màu trắng đỏ, cổ trái tim dài tay và 01 (Một) chiếc quần dài thể thao màu đen xám.

Số lượng, tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an thành phố Bắc Kạn và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Bắc Kạn ngày 12/3/2018.

* Án phí: Áp dụng Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

"Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật Thi hành án dân sự ".

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo, vắng mặt bị hại. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

298
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 05/2018/HS-ST ngày 20/03/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:05/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Kạn - Bắc Kạn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về