Bản án 04/2021/HS-ST ngày 14/01/2021 về tội chống người thi hành công vụ

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẮC TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 04/2021/HS-ST NGÀY 14/01/2021 VỀ TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ

Trong các ngày 08 và ngày 14 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bắc Tân Uyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 89/2020/TLST-HS ngày 27 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 84/2020/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

Đoàn Lê Thanh T, sinh năm 1986 tại Bình Dương. Hộ khẩu thường trú: Ấp V, xã T, huyện B, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đoàn Văn Ú (Đã chết) và bà Lê Kim P, vợ tên Trần Thị Hoài P1, sinh năm 1988, có 01 con sinh năm 2019; tiền án: Không; tiền sự: Không; nhân thân: Không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 13/8/2020 sau đó chuyển sang tạm giam cho đến nay, có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo Đoàn Lê Thanh T: Ông Nguyễn Huy T1, sinh năm 1972 - Luật sư Văn phòng Luật sư Phổ M thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Bình Dương. Địa chỉ: Tổ 1, Khu phố 3, phường U, thị xã T, tỉnh Bình Dương; có mặt.

Nguyên đơn dân sự: Công an huyện B. Địa chỉ: Ấp S, xã Đ, huyện B, tỉnh Bình Dương.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Thành T2 - Trưởng Công an huyện B.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Quốc T3, sinh năm 1993 - Kế toán trưởng Công an huyện B; có đơn xin giải quyết vắng mặt.

Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Minh T. Địa chỉ: Thửa đất số 181, Tờ bản đồ số 34, Khu 7, phường U, thị xã T, tỉnh Bình Dương.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Đỗ Hoài Phương M, sinh năm 1979 - Giám đốc; có mặt.

2. Bà Trần Thị Hoài P1, sinh năm 1988. Địa chỉ: Ấp V, xã T, huyện B, tỉnh Bình Dương; có mặt.

3. Ông Kim T4, sinh năm 1989. Địa chỉ: Ấp C, xã H, huyện T, tỉnh Trà Vinh; có mặt.

4. Ông Nguyễn Văn T5, sinh năm 1988. Địa chỉ: Khu phố K, phường K, thị xã T, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.

Những người làm chứng:

1. Ông Bồ Minh T6, sinh năm 1987; có đơn xin giải quyết vắng mặt.

2. Ông Trần Quan T7, sinh năm 1980; có đơn xin giải quyết vắng mặt.

3. Ông Huỳnh Hữu L, sinh năm 1995; có đơn xin giải quyết vắng mặt.

4. Ông Nguyễn Minh V, sinh năm 1999; có đơn xin giải quyết vắng mặt.

5. Ông Đinh Văn T8, sinh năm 1980; có đơn xin giải quyết vắng mặt.

6. Ông Trần Minh T9, sinh năm 1985; có đơn xin giải quyết vắng mặt.

7. Ông Lương Tấn T10, sinh năm 1996; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các Tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Thực hiện Kế hoạch số 06/KH-CAH-TH ngày 11/6/2020 của Công an huyện B mở đợt cao điểm phối hợp tuần tra kiểm soát đảm bảo trật tự an toàn xã hội và phòng chống tội phạm trên toàn tuyến, địa bàn trọng điểm. Ngày 12 tháng 8 năm 2020, thực hiện Công lệnh tuần tra số 166/CL và số 167/CL phân công tuần tra V trang gồm 14 cán bộ, chiến sỹ Công an tuần tra trên địa bàn từ 20 giờ 00 phút ngày 12 tháng 8 năm 2020 đến 04 giờ 00 phút ngày 13 tháng 8 năm 2020.

Khoảng 01 giờ 20 ngày 13/8/2020, tổ tuần tra của Công an huyện B đến ấp Xóm Đèn, xã Tân Mỹ, huyện Bắc Tân Uyên phát hiện Đoàn Lê Thanh T điều khiển xe ôtô biển số 61H - 6524, Lương Tấn T10 điều khiển xe ôtô biển số 61C-179.15, Kim T4 điều khiển xe ôtô biển số 61C-192.17, Nguyễn Văn T5 điều khiển xe ôtô biển số 61C-151.56 và Nguyễn Thành T5 điều khiển máy đào đang có hành vi khai thác, vận chuyển khoáng sản nên đã T4 hành kiểm tra, ra tín hiệu còi và đèn chiếu sáng để yêu cầu kiểm tra thì các đối tượng sử dụng bộ đàm trên xe thông báo cho nhau biết. Sau khi nghe thông báo, T đã điều khiển xe ôtô biển số 61H-6524 bỏ chạy nhằm tránh sự kiểm tra của Công an. Khi vừa quay đầu xe, T phát hiện có 02 xe môtô và Công an mang theo súng chạy đến chặn ở đầu đường vào nơi khai thác khoáng sản, cách xe của T khoảng 15m đến 20m. T nghe Công an hô lớn và dùng đèn pin chiếu sáng rọi vào xe yêu cầu T, T10 và T4 dừng xe xuống làm việc. T không chấp hành, chống đối việc kiểm tra của Công an nên điều khiển xe ôtô chạy về hướng Công an đang đứng chốt chặn để Công an phải sợ, né tránh cho T bỏ chạy. Khi T điều khiển xe đến cách Công an đang đứng khoảng 2m thì Công an gồm: Bồ Minh T6, Huỳnh Hữu L, Trần Quan T7, Nguyễn Minh V vẫn không né tránh. T nhìn thấy có Công an cầm súng hướng về phía xe của T và yêu cầu T dừng xe xuống làm việc nhưng T vẫn không chấp hành mà giảm ga lại rồi lại tiếp tục đạp ga cho xe chạy thẳng vào Công an. Thấy xe ôtô do T điều khiển không dừng lại, tiếp tục lao đến buộc Công an phải né tránh đồng thời nổ súng chỉ thiên ra hiệu yêu cầu T và những người khai thác khoáng sản phải dừng lại. T tiếp tục không chấp hành dừng xe mà điều khiển xe chạy về hướng Công ty Gia Hưng để chạy ra đường ĐT746 chạy trốn. Khi T4 và T10 thấy T chạy qua được 61C-179.15 điều khiển xe chạy theo phía sau. Trên đường bỏ chạy, T sử dụng bộ đàm nói với T5 đang chạy phía trước “Công an, Công an Tỉnh ơi” thì Tỉnh điều khiển xe tấp vào lề cho T chạy qua. Khi ra gần đến đường ĐT746, T bị một tổ tuần tra còn lại của Công an huyện Bắc Tân Uyên sử dụng xe chuyên dụng chặn đường, sử dụng đèn chiếu sáng và còi ra tín hiệu yêu cầu T dừng xe để xuống làm việc. Thấy Công an chặn đường, T dừng xe lại rồi điều khiển xe lùi về phía sau để tìm đường bỏ chạy. Nhìn thấy T lùi xe tiếp tục bỏ chạy, đồng chí Trần Minh T8 thuộc Đội Cảnh sát Giao thông - Trật tự cơ động Công an huyện Bắc Tân Uyên điều khiển xe môtô biển số 61B1-002.45 đuổi theo. T10 điều khiển xe ôtô biển số 61C-179.15 chạy đến thấy T bị Công an chặn đường, T đang cho xe lùi về sau nên T10 cho xe dừng lại phía sau, cách xe của T khoảng 10m. Đồng chí Trần Minh T8 điều khiển xe môtô biển số 61B1-002.45 chặn ngang phía trước đầu xe ôtô của T10 và chặn phía sau xe T đang điều khiển. T cho xe lùi về phía sau nhìn thấy ánh đèn xe phía sau biết là xe của những người vận chuyển khoáng sản chung nên T dừng xe, sử dụng bộ đàm nói “de, de về sau” nhưng không ai trả lời. Do sợ T lùi xe đụng trúng xe của mình nên T10 điều khiển xe lùi về phía sau. T nhìn thấy xe ôtô phía sau lùi nên cho xe của T tiếp tục lùi về sau và cán lên xe môtô biển số 61B1-002.45. Sau khi cán lên xe môtô, T điều khiển xe chạy về phía trước và dừng xe thì bị Công an khống chế đưa về trụ sở làm việc. Quá trình điều tra, Đoàn Lê Thanh T đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 109/KLHĐ-ĐGTS ngày 01/10/2020 của Hội đồng định giá tài sản huyện Bắc Tân Uyên xác định giá trị thiệt hại của xe môtô biển số 61B1-002.45 là 21.013.000 đồng.

Ngày 20/8/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Tân Uyên đã ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, quyết định khởi tố bị can đối với Đoàn Lê Thanh T về “Tội chống người thi hành công vụ” theo khoản 1 Điều 330 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Hành vi của Đoàn Lê Thanh T, Lương Tấn T10, Kim T4, Nguyễn Văn T5 và Nguyễn Thành T11 khai thác, vận chuyển khoáng sản, Công an huyện Bắc Tân Uyên tiếp tục điều tra làm rõ và xử lý sau.

Tại Bản Cáo trạng số 85/CT-VKS-BTU ngày 26/11/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bắc Tân Uyên truy tố bị cáo Đoàn Lê Thanh T về “Tội chống người thi hành công vụ” theo khoản 1 Điều 330 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54, khoản 1 Điều 330 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Đoàn Lê Thanh T mức hình phạt tù bằng với thời gian đã bị tạm giam.

Về trách nhiệm dân sự: Công an huyện Bắc Tân Uyên yêu cầu bị cáo Đoàn Lê Thanh T bồi thường thiệt hại xe môtô biển số 61B1-002.45 với số tiền 21.013.000 đồng.

Về biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng:

Đối với 01 xe môtô biển số 61B1-002.45, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Tân Uyên đã trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là Công an huyện Bắc Tân Uyên.

Đối với 01 giấy Chứng Minh nhân dân số 280881274 tên Nguyễn Văn T5 không liên quan đến việc phạm tội, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Tân Uyên đã trả lại cho ông T5.

Đối với 01 giấy Chứng minh nhân dân số 334749419 tên Kim T4; 01 giấy phép lái xe hạng C, số 740086007036; 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy 21S, màu đen; 01 điện thoại di động hiệu Nokia X1, màu đỏ - đen không liên quan đến việc phạm tội, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyên Bắc Tân Uyên đã trả lại cho ông T4.

Đối với xe ôtô biển số 61H-6524 của Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Minh T. Ngày 13/8/2020, Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Minh T giao cho Đoàn Lê Thanh T sử dụng để thực hiện hành vi khai thác, vận chuyển khoáng sản. Bị cáo T tự ý sử dụng xe ôtô thực hiện hành vi phạm tội, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Tân Uyên đã trả lại cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Minh T.

Đối với 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu hồng của bị cáo T không liên quan đến việc phạm tội, đề nghị trả lại cho bị cáo T.

Đối với 01 bộ đàm hiệu KENWOOD màu đen bị cáo T và Nguyễn Văn T5 dùng để liên lạc trong quá trình bỏ chạy là T10 sản của Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên M T. Bị cáo sử T sử dụng để phạm tội, đề nghị tịch thu vào ngân sách Nhà nước.

Người bào chữa cho bị cáo trình bày:

Qua các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và quá trình tranh tụng tai phiên tòa thì chưa đủ cơ sở để xác định bị cáo Đoàn Lê Thanh T phạm “Tội chống người thi hành công vụ” theo khoản 1 Điều 330 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo không phạm tội và trả tự do cho bị cáo tại phiên tòa.

Bị cáo thống nhất nội dung vụ án, kết luận định giá tài sản, không tranh luận và nói lời sau cùng xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Tân Uyên, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bắc Tân Uyên, Kiểm sát viên: Quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi và quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Tại phiên toà, ông Nguyễn Quốc T7, ông Nguyễn Văn T5, ông Bồ Minh T6, ông Trần Quan T7, ông Huỳnh Hữu L, ông Nguyễn Minh V, ông Đinh Văn T8, ông Trần M T8 và ông Lương Tấn T10 vắng mặt, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 292 và Điều 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự xét xử vắng mặt.

Về nội dung vụ án:

[3] Căn cứ vào lời khai của bị cáo, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và quá trình tranh tụng tại phiên tòa xác định: Ngày 13/8/2020, bị cáo Đoàn Lê Thanh T điều khiển xe ôtô biển số 61H - 6524 vận chuyển khoáng sản. Bị Công an huyện Bắc Tân Uyên kiểm tra, ra hiệu lệnh dừng xe, bị cáo T không chấp hành, có hành vi chống đối điều khiển xe ôtô chạy thẳng vào Công an. Khi bị Công an huyện Bắc Tân Uyên chốt chặn, bị cáo T tiếp tục không chấp hành mà điều khiển lùi xe, vô ý cán hư hỏng xe môtô của Công an huyện Bắc Tân Uyên. Hành vi của bị cáo T đã đủ yếu tố cấu thành “Tội chống người thi hành công vụ” theo khoản 1 Điều 330 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Bản cáo trạng số 85/CT-VKS-BTU ngày 26/11/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo về “Tội chốngg người thi hành công vụ” theo khoản 1 Điều 330 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến việc thực hiện nhiệm vụ của những người đang thi hành công vụ, xâm phạm đến hoạt động của Nhà nước về quản lý hành chính trong lĩnh vực thi hành nhiệm vụ công. Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, đã thực hiện tội phạm là xem thường pháp luật, bất chấp hậu quả, Hội đồng xét xử cần xử mức án bằng hình phạt tù có thời hạn mới đủ tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo tác động gia đình sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả và bị cáo có bà ngoại tên Võ Thị T12 được tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s, i khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[7] Xét bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng, có nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Thời gian bị cáo bị tạm giữ, tạm giam cũng đủ để bị cáo nhận ra được hành vi sai trái, Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết phải tiếp tục cách ly bị cáo khỏi xã hội và áp dụng Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo bằng với thời hạn tạm giam là đủ sức giáo dục, răn đe bị cáo và cũng đủ tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung trong xã hội.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã tác động bà Trần Thị Hoài P1 bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả cho Công an huyện Bắc Tân Uyên số tiền 21.013.000 đồng. Người đại diện hợp pháp của Công an huyện Bắc Tân Uyên không yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết.

[9] Về biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng:

Xét 01 xe môtô biển số 61B1-002.45 là tài sản của Công an huyện Bắc Tân Uyên, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại cho Công an huyện Bắc Tân Uyên là phù hợp với quy định của pháp luật.

Xét 01 giấy Chứng minh nhân dân số 280881274 tên Nguyễn Văn T5 không liên quan đến việc phạm tội, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Tân Uyên đã trả lại cho ông T5 là phù hợp với quy định của pháp luật.

Xét 01 giấy Chứng Minh nhân dân số 334749419 tên Kim T4; 01 giấy phép lái xe hạng C, số 740086007036; 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy 21S màu đen; 01 điện thoại di động hiệu Nokia X1, màu đỏ - đen không liên quan đến việc phạm tội, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Tân Uyên đã trả lại cho ông T4 là phù hợp với quy định của pháp luật.

Xét 01 xe ôtô biển số 61H-6524 của Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Minh T. Ngày 13/8/2020, Công ty giao cho bị cáo T sử dụng để thực hiện hành vi khai thác, vận chuyển khoáng sản. Bị cáo T tự ý sử dụng xe thực hiện hành vi phạm tội, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Tân Uyên đã trả lại cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Minh T là phù hợp với quy định của pháp luật.

Đối với 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu hồng của bị cáo T không liên quan đến việc phạm tội, cần trả lại cho bị cáo T.

Đối với 01 bộ đàm hiệu KENWOOD màu đen bị cáo T và Nguyễn Văn T5 dùng để liên lạc trong quá trình bỏ chạy là T10 sản của Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Minh T. Bị cáo sử T sử dụng để phạm tội thì công ty không biết, cần trả lại cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Minh T.

[10] Xét đề nghị của Kiểm sát viên về hình phạt đối với bị cáo, trách nhiệm dân sự là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Đối với đề nghị về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp, Hội đồng xét xử chỉ chấp nhận một phần.

[11] Ý kiến của người bào chữa cho bị cáo là chưa phù hợp nên Hội đồng xét xử không chấp nhận.

[12] Về án phí sơ thẩm: Bị cáo bị kết án nên phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 1. Về trách nhiệm hình sự:

QUYẾT ĐỊNH

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Đoàn Lê Thanh T phạm “Tội chống người thi hành công vụ”.

Về hình phạt: Áp dụng các điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 và khoản 1 Điều 330 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017:

Xử phạt bị cáo Đoàn Lê Thanh T 05 (Năm) tháng 01 (Một) ngày tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 13/8/2020 và bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù.

Áp dụng khoản 5 Điều 328 của Bộ luật Tố tụng hình sự tuyên trả tự do cho bị cáo tại phiên tòa nếu không bị tạm giam về một tội phạm khác.

2. Về trách nhiệm dân sự:

Áp dụng Điều 48 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017:

Trả lại cho Công an huyện B số tiền 21.013.000 đồng (Hai mươi mốt triệu không trăm mười ba nghìn đồng) tại Biên lai thu tiền số: AA/2020/08443 ngày 30/11/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bắc Tân Uyên.

3. Về biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng:

Áp dụng Điều 46, Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Trả cho bị cáo Đoàn Lê Thanh T 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu hồng.

Trả cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Minh T 01 bộ đàm hiệu KENWOOD màu đen.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 27/11/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bắc Tân Uyên).

4. Về án phí hình sự sơ thẩm:

Áp dụng Điều 135, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Bị cáo Đoàn Lê Thanh T phải nộp số tiền 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

5. Về quyền kháng cáo:

Bị cáo, người đại diện hợp pháp của nguyên đơn dân sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

215
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 04/2021/HS-ST ngày 14/01/2021 về tội chống người thi hành công vụ

Số hiệu:04/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Tân Uyên - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về