Bản án 04/2021/HNGĐ-ST ngày 19/01/2021 về ly hôn 

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN P- TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 04/2021/HNGĐ-S NGÀY 19/01/2021 VỀ LY HÔN

Ngày 19 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Pxét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 373/2020/TLST-HNGĐ ngày 01 tháng 10 năm 2020 về việc tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 58/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 30/11/2020; Quyết định tạm ngừng phiên tòa số: 12/2020/QĐST-HNGĐ ngày 16/12/2020; Thông báo về việc tiếp tục phiên tòa số: 1275/TB-TA ngày 28/12/2020;

Quyết định hoãn phiên tòa số: 01/2021/QĐST-HNGĐ ngày 06/01/2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Tống Thị Kim Q, sinh năm 1996. Nơi cư trú: Số 90/5, PBC, khóm BT 2, phường BK, thành phố LX, tỉnh An Giang. (có đơn xin xét xử vắng mặt) 2. Bị đơn: Phạm Văn C, sinh năm 1991. Nơi cư trú: Số 164/1, ấp AĐ, xã AT, huyện P, tỉnh Bến Tre. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 30/9/2020, trong quá trình tố tụng và đơn yêu cầu xét xử vắng mặt ngày 06/01/2021, nguyên đơn chị Tống Thị Kim Q trình bày:

Chị và anh Phạm Văn C kết hôn năm 2017 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND phường MB, thành phố LX, tỉnh AG và được cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 23/10/2017. Sau khi kết hôn, thì vợ chồng sống hạnh phúc sinh được 01 con chung tên Phạm Quỳnh Thiên K, sinh ngày 21/4/2018. Tài sản chung, nợ chung không có. Vợ chồng sống với nhau cho đến khoảng đầu năm 2019 thì xãy ra mâu thuẩn và hiện nay chúng tôi đã ly thân. Nguyên nhân chính vợ chồng không còn sống chung là do thường xuyên bất đồng quan điểm, tình cảm lạnh nhạt, thường xuyên cải vã. Nay Chị Q nhận thấy vợ chồng không còn hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết như sau:

Về hôn nhân: Chị Q yêu cầu xin được ly hôn với anh Phạm Văn C. Chị Q không yêu cầu nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ chồng khi ly hôn.

Về con chung: Chị Q yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung Phạm Quỳnh Thiên K, sinh ngày 21/4/2018, chị không yêu cầu Anh C phải cấp dưỡng nuôi con (do hiện nay tại nhà chị có mở lớp giữ trẻ mầm non và đồng thời chị là gia sư dạy rèn chử cho học sinh Trung tâm Superbrain tại đường Trần Hưng Đạo, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang với mức thu nhập mỗi tháng là khoảng 18.000.000 đồng nên chị có đủ điều kiện để nuôi dưỡng con tốt về tinh thần và vật chất).

Về tài sản chung: không có, không yêu cầu giải quyết. Về nợ chung: không có, không yêu cầu giải quyết.

Tại phiên tòa bị đơn Phạm Văn C vắng mặt nhưng theo biên bản hòa giải ngày 05/11/2020, các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ Anh C trình bày:

Anh C thống nhất với ý kiến của chị Tống Thị Kim Q về thời gian cưới nhau, kết hôn, con chung và tài sản chung, nợ chung.

Nguyên nhân mất hạnh phúc là từ tháng 3 năm 2020 và từ đó vợ chồng đã sống ly thân.

Nay theo yêu cầu xin ly hôn của Chị Q thì Anh C có yêu cầu như sau:

Về hôn nhân: Anh C đồng ý ly hôn theo đơn yêu cầu khởi kiện của Chị Q. Anh không yêu cầu nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ chồng khi ly hôn.

Về con chung: Phạm Quỳnh Thiên K, sinh ngày 21/4/2018 (hiện nay đang do Chị Q trực tiếp nuôi dưỡng), Anh C yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu Chị Q cấp dưỡng nuôi con chung.

Nếu tòa chấp nhận theo yêu cầu của Chị Q là giao con chung cho Chị Q được trực tiếp nuôi dưỡng thì Anh C sẽ tự nguyện cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 5.000.000 đồng, cấp dưỡng đến khi con chung tròn 18 tuổi (hiện nay nghề nghiệp anh là chuyên viên giám định viên Hàng Hải, công tác tại phường Mỹ Thới, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang với mức lương mỗi tháng 11.000.000đồng nên anh đủ điều kiện nuôi dưỡng con).

Về tài sản chung: tự thỏa thuận nên Anh C không yêu cầu giải quyết. Về nợ chung: không có nên không yêu cầu giải quyết.

Kiểm sát viên phát biểu quan điểm giải quyết vụ án cho rằng: Trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án đã thực hiện đầy đủ các thủ tục tố tụng; Tại phiên tòa Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa, các Hội thẩm nhân dân, Thư ký đã thực hiện đầy đủ theo đúng thủ tục tố tụng; người tham gia tố tụng là nguyên đơn, bị đơn đã nghiêm túc chấp hành đúng quy định tại các Điều 70, 71, 72 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn cho chị Tống Thị Kim Q được ly hôn với anh Phạm Văn C. Về nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn do hai bên không yêu cầu nên không xem xét. Về con chung: chị Tống Thị Kim Q được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Phạm Quỳnh Thiên K, sinh ngày 21/4/2018. Ghi nhận Anh C cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000 đồng. Về tài sản chung: không yêu cầu nên không giải quyết. Về nợ chung: không có nên không giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thạnh Phú. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Thẩm quyền giải quyết: Chị Tống Thị Kim Q yêu cầu ly hôn với anh Phạm Văn C, do bị đơn sinh sống tại huyện Pnên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Ptheo quy định các Điều 28, Điều 35, Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn chị Tống Thị Kim Q có đơn xin vắng mặt; bị đơn anh Phạm Văn C vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do nên căn cứ vào các Điều 227, 228 của Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự này.

[3] Chị Tống Thị Kim Q và anh Phạm Văn C cưới nhau vào năm 2017, có đăng ký kết hôn tại UBND phường Mỹ Bình, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang và được cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 23/10/2017 là hôn nhân hợp pháp. Thời gian đầu sống chung hạnh phúc sau đó phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, hai bên không có thiện chí dung hòa khắc phục mâu thuẫn hiện nay đã ly thân, trong khoảng thời gian không sống chung hai bên không tạo điều kiện cho nhau để hàn gắn tình cảm, cũng như hai bên không có giải pháp nào giải quyết những mâu thuẫn để sum họp gia đình và từ khi ly thân hai bên có cuộc sống riêng tư, không còn quan tâm chăm sóc lẫn nhau. Đồng thời quá trình giải quyết Tòa án thu thập chứng cứ bằng biện pháp xác minh tình trạng hôn nhân thì được xác nhận tình trạng hôn nhân hai bên đã xảy ra nhiều mâu thuẫn, bất đồng trong cuộc sống và sinh hoạt. Qua hòa giải Anh C không đồng ý ly hôn theo yêu cầu của Chị Q nhưng tại phiên tòa ngày 16/12/2020 Anh C đồng ý ly hôn với Chị Q nên căn cứ Điều 55 Luật hôn nhân và gia đình Hội đồng xét xử công nhận sự thuận tình ly hôn giữa Chị Q và Anh C.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn do hai bên không yêu cầu nên không xem xét.

[4] Xét về con chung: Qua quá trình giải quyết, Chị Q và Anh C yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Phạm Quỳnh Thiên K- sinh ngày 21/4/2018. Xét thấy cháu Thiên Kim còn nhỏ, chưa đủ 36 tháng tuổi cần sự quan tâm chăm sóc của mẹ nhiều hơn. Hiện nay cháu Thiên Kim đang sống chung với Chị Q, cháu Thiên Kim vẫn phát triển bình thường. Chị Q có cung cấp được tài liệu chứng cứ chứng minh mức thu nhập hàng tháng khoảng 18.000.000 đồng, đủ điều kiện nuôi con chung nên không cần thiết phải thay đổi môi trường sống để đảm bảo sự phát triển bình thường của cháu Thiên Kim xét yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi con chung của Chị Q có cơ sở chấp nhận. Anh C yêu cầu trực tiếp nuôi con chung nhưng không cung cấp tài liệu chứng cứ chứng minh điều kiện nuôi con tốt hơn Chị Q nên không có cơ sở chấp nhận.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Q không yêu cầu Anh C cấp dưỡng nuôi con. Tuy nhiên qua giải quyết Anh C có ý kến nếu con chung giao cho Chị Q trực tiếp nuôi dưỡng thì Anh C tự nguyện cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 5.000.000 đồng, cấp đến khi con chung tròn 18 tuổi. Xét việc Anh C đồng ý cấp dưỡng nuôi con chung là việc Anh C tự nguyện nên Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện này.

[5] Về tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu giải quyết nên không xem xét. [6] Về nợ chung: không có nên không xem xét giải quyết.

[7] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát phù hợp một phần với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận. Còn một phần về việc cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 2.000.000 đồng là không phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên không chấp nhận.

[8] Chị Q phải nộp án phí hôn nhân gia đình và Anh C phải nộp án phí cấp dưỡng theo quy định tại Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí của Toà án. Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, các Điều 147, 227, 228, 238, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Áp dụng các Điều 51, 55, 56, 81, 82, 83, 84, 115 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí của Toà án.

- Về hôn nhân: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Tống Thị Kim Q với anh Phạm Văn C. Về nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn do hai bên không có yêu cầu nên Tòa án không xem xét.

- Về con chung: Chị Q được trực tiếp nuôi dưỡng Phạm Quỳnh Thiên K, sinh ngày 21/4/2018. Anh C có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 5.000.000 đồng, cho đến khi con chung tròn 18 tuổi.

Anh C có quyền đến thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai có quyền ngăn cản. Vì lợi ích của con chung, một hoặc hai bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con cũng như mức cấp dưỡng nuôi con theo qui định.

- Về tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

- Về nợ chung: Không có nên không xem xét giải quyết.

- Về án phí:

+ Án phí hôn nhân và gia đình: Chị Q phải nộp 300.000đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đồng theo biên lai thu số: 0003124 ngày 30/9/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện P. Như vậy án phí Chị Q đã nộp xong.

+ Án phí cấp dưỡng: Anh C nộp 300.000 đồng tại Chi cục thi hành án dân sự huyện P.

Đương sự vắng mặt được quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự để yêu cầu Toà án cấp trên xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được Thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

225
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 04/2021/HNGĐ-ST ngày 19/01/2021 về ly hôn 

Số hiệu:04/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ba Tri - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về