Bản án 04/2020/PT-HNGĐ ngày 09/01/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 04/2020/PT-HNGĐ NGÀY 09/01/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 0 9 tháng 01 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khaivụ án thụ lý số 156/2019/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 12 năm 2019 về tranh chấp“hôn nhân và gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 288/2019/QĐXX-PT ngày 04 tháng12 năm2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn Ông HTL – sinh năm 1972; chứng minh thư nhân dân số 011714978 do Công an thành phố Hà Nội cấp ngày 11.5.2006

2. Bị đơn: Bà VTTR - sinh năm 1977; chứng minh thư nhân dân số 012968789 do công an thành phố Hà Nội cấp ngày 15.11.2011.

3. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Bà Trần thị Thu Thủy: Cả ba cùng đăng ký hộ khẩu thường trú và cư trú tại địa chỉ: số 91, phố Chính Kinh, phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Ngày 25 tháng 5 năm 2019, ông HTLcó đơn khởi kiện vụ án xin ly hôn, các bên yêu cầu Tòa án giải quyết các vấn đề sau:

Về hôn nhân: xin ly hôn với Bà VTTR vì vợ chồng có nhiều mâu thuẫn, không thể tiêp tục chung sống Về con: có 02 con chung là: Hoàng Lâm Duy sinh 19/5/2010 và Hoàng Diệu My sinh 01/10/2007. Khi ly hôn, có nguyện vọng trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung, không yêu cầu Bà TR có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con.

+ Về tài sản, nhà ở, vay nợ: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

+ Về án phí: Ông Ltự nguyện chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Quá trình giải quyết vụ án, các bên đương sự thống nhất nội dung vụ án như sau:

Ông HTL và Bà VTTR đăng ký kết hôn 09/3/2007 tại UBND phường Nhân Chính, thành phố Hà Nội trên cơ sở tự nguyện. Sau khi đăng ký kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc một thời gian sau đó thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm lối sống, không hợp nhau về cách sống. Gia đình hai bên đã có ý kiến, tuy nhiên tình cảm ngày càng rạn nứt, không thể tiếp tục chung sống. Nay cả hai bên xác định mâu thuẫn trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, tình cảm không còn, thực tế hai bên đã sống ly thân. Ông HTLcó nguyện vọng xin ly hôn, Bà Tr không đồng ý vì muốn vợ chồng đoàn tụ nuôi dưỡng con chung.

Về con: Ông HTL và bà Vũ Thanh Trang có 02 con chung là: Hoàng Lâm Duy sinh 19/5/2010 và Hoàng Diệu My sinh 01/10/2007. Khi ly hôn, ông HTL có nguyện vọng trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung, không yêu cầu Bà TR có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con. Nếu Bà TR có nguyện vọng trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung, ông L cũng đồng ý và tự nguyện cấp dưỡng nuôi con 2.000.000 đồng/tháng. Trường hợp Bà TR xin nuôi một cháu, ông Lcũng đồng ý, hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con cho nhau.

+ Về tài sản, nhà ở, vay nợ: Hai bên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Kèm theo đơn khởi kiện, nguyên đơn đã xuất trình các tài liệu, chứng cứ sau:

1- 01 Giấy chứng nhận kết hôn bản chính.

2- Bản sao Giấy khai sinh của 02 con.

3- Giấy xác nhận tình trạng chung sống vợ chồng.

4- Văn bản về nguyện vọng của con;

5- Bản sao sổ hộ khẩu.

Bà HTTR, trình bày quan điểm: Bà không đồng ý ly hôn và không đồng ý việc ông HTL có lý do bà không đồng ý ly hôn vì ông HTLlà người công việc không ổn định và không có trách nhiệm với gia đình. Nếu ly hôn, bà không an tâm giao con cho ông Ltrực tiếp nuôi dưỡng nên hai vợ chồng cần phải chung sống để cùng nuôi dạy con chung. Trường hợp Tòa án giải quyết cho ly hôn, bà đồng ý để ông HTL trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung, tam hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho bà vì hiện nay bà không có chỗ ở, không đủ điều kiện trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Về tài sản, nhà ở không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ngoài ra không còn ý kiến nào khác. Tại Bản án số 32/2019/HNGĐ-ST ngày 29/08/2019 của Tòa án Nhân dân quận Thanh Xuân đã xét xử và Quyết định:

Căn cứ vào Điều 27, 63, 227, 228, 220, 264, 266, 267, 273, 278, 280 của Bộ luật tố tụng dân sựĐiều 19, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30.12.2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Xử:

1- Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa ông HTLvà Bà VTTR.

2- Về nuôi con chung:

2.1. Giao 02 con chung Hoàng Lâm Duy sinh 19/5/2010 và Hoàng Diệu My sinh 01/10/2007cho ông HTLtrực tiếp nuôi dưỡng.

2.3. Ghi nhận sự tự nguyện của ông HTLkhông yêu cầu Bà VTTR cấp dưỡng nuôi con, tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con của Bà VTTR cho đến khi ông HTL có yêu cầu hoặc có sự thay đổi khác. Bà VTTRđược quyền đi lại trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung, không ai được ngăn cản.

3- Về chia tài sản: ông HTLvà Bà VTTR không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

Không nhất trí với quyết định của Tòa án. Bà TR kháng cáo bản án Tại Tòa án cấp phúc thẩm các đương sự không tự thỏa thuận giải quyết toàn bộ nội dung vụ án. Giữ nguyên quan điểm của mình.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân, thành phố Hà Nội phát biểu quan điểm: Về tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký Tòa án đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về trình tự giải quyết vụ án; các đương sự đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình. Về nội dung, căn cứ điều 308 bộ luật tố tụng dân sự vào các tài liệu có trong hồ sơ, đã được thẩm tra tại phiên tòa, đề nghị Hội đồng xét xử: Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của Bà VTTR: Giữ nguyên bản án sơ thẩm

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng Đơn kháng cáo của Bà VTTR trong hạn luật định.

[2] Về hôn nhân: Ông HTL và Bà VTTR kết hôn tự nguyện có đăng ký kết hôn tại UBND phường Nhân Chính, không vi phạm điều cấm nên là hôn nhân hợp pháp. Ông HTLyêu cầu ly hôn, Tòa án đã hòa giải nhưng không thành, ông HTLvẫn kiên quyết xin ly hôn. Lý do ông HTLđưa ra là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống. Cả hai xác định tình cảm vợ chồng không còn, đã sống ly thân. Lý do Bà VTTR xác định tình cảm vợ chồng không còn do ông HTL nghiện rượu, đã từng phải điều trị tâm lý cai nghiện rượu tại bệnh viện tâm thần. Tuy nhiên, bà không đồng ý ly hôn chỉ là muốn vợ chồng cùng nuôi dạy con chung. Xét thấy, tình nghĩa vợ chồng quy định tại Điều 19 Luật hôn nhân và gia đình năm 2015 bị vi phạm nghiêm trọng, tình trạng hôn nhân trầm trọng, mục đích hôn nhân nhằm xây dựng gia đình hạnh phúc không đạt được. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tiến hành hòa giải đoàn tụ nhưng không thành do ông HTLkiên quyết xin ly hôn. Do vậy, cuộc sống hôn nhân của Bà VTTR, ông HTL thực tế chỉ còn tồn tại về mặt hình thức nên việc Tòa án giải quyết cho ly hôn là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2015.

[3] Về con chung: Ông HTL và Bà VTTR có 02 con chung: Hoàng Lâm Duy sinh 19/5/2010 và Hoàng Diệu My sinh 01/10/2007.

Khi ly hôn, ông HTL có nguyện vọng trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung, không yêu cầu Bà TR có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con; tại phiên tòa hôm nay, Bà VTTRđồng ý giao ông HTLtrực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung, tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho bà do hiện nay bà chưa có chỗ ở ổn định, chưa đủ điều kiện nuôi dưỡng.

Căn cư hồ sơ và tài liệu cùng ý kiến các bên trình bày có cơ sở xác định cả ông HTL và Bà VTTR đều đủ điều kiện nuôi dương con chung, Hiện tại Bà TR chưa có nhà ở sau ly hôn để ổn định cuộc sống các con và sự tự nguyện giao nuôi con của hai bên là tự nguyện, phù hợp với quy định của pháp luật. Do vậy, cần giao cả hai con chung cho ông HTL trực tiếp nuôi dưỡng. Bà VTTR vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung theo quy định tại các Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình. Ghi nhận sự tự nguyện của ông HTLkhông yêu cầu Bà VTTR cấp dưỡng nuôi con,cho đến khi ông HTLcó yêu cầu hoặc có sự thay đổi khác.

[4] Về tài sản: Bà VTTR và ông HTL không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản khi ly hôn nên Tòa án không xem xét giải quyết nếu sau này có yêu cầu được xem xét giải quyết bằng vụ án dân sự khác. Tại Cấp phúc thẩm bà Thủy là chủ căn nhà Anh Long chị Trang đang ở nhờ là mẹ đẻ anh Long có đề nghị sau ly hôn vì hai bên có nhiều mâu thuẫn bà không đồng ý để chị Trang lưu cư 6 tháng mà bà tự nguyện hỗ trợ chị Trang 6 tháng thuê nhà với số tiền 12.000.000 đ để chị Trang ổn định cuộc sống mới sau ly hôn. Phía chị Trang đề nghị tiếp tục ở tại nhà ba Thủy để nuôi con. Sau ly hôn mâu thuẫn căng thẳng chị Trang tiếp tục sông chung cùng gia đình anh Long sẽ ảnh hưởng tới cuộc sống chung, tránh gây mất trật tự trị an tại địa phương nên ghi nhận sự tự nguyện của bà Thủy hỗ trợ chị Trang tiền thuê nhà tìm nơi ở mới.

[5] Về án phí: Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30.12.2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, ông HTL phải chịu toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điều 308, điều 146, điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự.

Điều 19, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2015.

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30.12.2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Xử: Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của Bà VTTR. Sửa bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân.

1- Về hôn nhân: Chấp nhận đơn xin ly hôn giữa ông HTLvới Bà VTTR.

2- Về nuôi con chung: Xác nhận hai bên có 02 con chung; Hoàng Lâm Duy sinh 19/5/2010 Hoàng Diệu My sinh 01/10/2007 Kể từ ngày Bản án có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày người được thi hành án có 

2.1. Giao 02 con chung Hoàng Lâm Duy sinh 19/5/2010 và Hoàng Diệu My sinh 01/10/2007cho ông Hoàng Tuấn bà tự nguyện hỗ trợ chị Trang 6 tháng thuê nhà với số tiền 12.000.000 đ để chị Trang ổn định cuộc sống mới sau ly hôn Long trực tiếp nuôi dưỡng.

2.3. Ghi nhận sự tự nguyện của ông HTLkhông yêu cầu Bà VTTR cấp dưỡng nuôi con cho đến khi ông HTLcó yêu cầu hoặc có sự thay đổi khác.

Bà VTTRđược quyền đi lại trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung, không ai được ngăn cản.

3- Về chia tài sản: ông HTL và Bà VTTR không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét. Nếu sau này có yêu cầu sẽ được giải quyết bằng vụ kiện dân sự khác.

4- Ghi nhận sự tự nguyện của bà Trần thị Thu Thủy hỗ trợ bà Trang 6 tháng thuê nhà với số tiền 12.000.000 đ để chị Trang ổn định cuộc sống mới sau ly hôn.

5- Về án phí: Ông HTLphải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0006013 ngày 04.6.2019 tại Chi cục thi hành án dân sự quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội.

Bà TR phải chịu 300,000 đ án phí phúc thẩm đã nộp tại biên lai số 00006304 ngày 10/09/2019 tại Cục thi hành án Thành phố Hà nội.

Bà Thủy không phải chịu án phí dân sự về khoản hỗ trợ Bà TR đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành xong khoản tiền thì hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất theo qui định của của Điều 468 Bộ luật dân sự Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện yêu cầu thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án Dân sự ; thời hiệu thi hành án được quy định tại điều 30 Luật Thi hành án Dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày 09/01/2020 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

241
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 04/2020/PT-HNGĐ ngày 09/01/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:04/2020/PT-HNGĐ
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 09/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về