Bản án 04/2020/HS-ST ngày 15/01/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÔNG MÃ, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 04/2020/HS-ST NGÀY 15/01/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 01 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 07/2020/TLST-HS ngày 02 tháng 01 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 06/2020/HSST-QĐ ngày 03 tháng 01 năm 2020 đối với bị cáo sau đây:

Họ và tên: Lường Văn D (tên gọi khác: Không), sinh năm 1963; Nơi sinh: Sông Mã - Sơn La. Nơi ở và ĐKHKTT: Bản P, xã B, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ văn hóa: 04/10; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Chức vụ Đảng phái, Đoàn thể: Không; Con ông Lường Văn A (đã chết) và bà Lường Thị Ú (đã chết); Vợ Lò Thị H và có 05 con, con lớn sinh năm 1984, con nhỏ sinh năm 1992.

Tiền án: Năm 2016 bị Tòa án nhân dân huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La xử phạt 26 tháng tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo bản án số 120/2016, ngày 24/8/2016.

Tiền sự: Không.

Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/9/2019 cho đến nay có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Lò Văn N, sinh năm 1983, trú tại: Bản M, xã NT, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hi 08 giờ 20 phút ngày 12 tháng 9 năm 2019, tổ công tác Công an xã B, phối hợp với Đồn Công an ML, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La làm nhiệm vụ tại bản P, xã B, huyện Sông Mã, Sơn La đã phát hiện bắt quả tang Lường Văn D, về hành vi cất giấu trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ: 01 gói nilon màu màu trắng bên trong có chứa 04 viên nén màu hồng (D khai nhận là hồng phiến); 01 chiếc điện thoại di động và 01 chiếc xe mô tô biển kiểm soát: 26K7 – 3507. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang niêm phong vật chứng theo quy định.

Ngày 13/9/2019 tại Phong ky thuât hinh sư Công an tinh Sơn La đã ti ến hành mở niêm phong, cân tịnh xác định khối lượng, lấy mẫu trưng cầu giám định: 04 viên nén màu hồng có khối lượng 0,37 gam, kết quả giám định là loại Methamphatamnine.

Quá trình điều tra bị cáo khai nhận: Do nghiện chất ma túy từ năm 2015.

Khong 07 giờ 30 ngày 12/9/2019, Lường Văn D mang theo 220.000đ một mình điều khiển xe mô tô HONDA, biển kiểm soát: 26K7 - 3507 từ nhà đến bản D, xã B, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La mục đích tìm mua ma túy để sử dụng. Khi đến bản Dạ, D đi vào nhà Lò Văn T thì gặp vợ của T tên là Lò Thị S đang ở trong nhà, D hỏi và mua được 01 gói nilon màu trắng bên trong có chứa 04 viên hồng phiến với giá 200.000 đồng. Mua được ma túy D cất giấu vào trong túi quần bên phải đang mặc rồi điều khiển xe mô tô về nhà, trên đường về mua xăng xe hết 20.000đ, khi về đến đầu cầu cứng thuộc bản PI, xã B, huyện Sông Mã thì gặp tổ công tác Đồn Công an ML và Công an xã B làm nhiệm vụ yêu cầu kiểm tra, D tự lấy trong túi quần gói nilon màu trắng bên trong có chứa 04 viên hồng phiến giao nộp cho tổ công tác. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng cùng một số đồ vật tài sản như đã nêu trên.

Về nguồn gốc số ma túy thu giữ trong vụ án theo lời khai của bị can Lường Văn D là mua của Lò Thị S, trú tại bản D, xã B, huyện Sông Mã với giá 200.000đ. Quá trình điều tra Lò Thị S khai nhận, khoảng 6 giờ sáng ngày 12/9/2019 So đi chăn trâu, bò của gia đình cùng với chồng là Lò Văn T tại lán nương của gia đình, không ở nhà và không được bán ma túy cho D. Ngoài lời khai của D không có căn cứ nào khác, do đó không có căn cứ xử lý Lò Thị S trong vụ án.

Đi với chiếc xe mô tô biển biển kiểm soát: 26K7 - 3507 có đăng ký xe mang tên Lò Văn N. Quá trình điều tra xác định chủ sở hữu là của anh Lò Văn N, trú tại bản M, xã NT, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La cho Lường Văn D (là anh rể) mượn từ tháng 8 năm 2019 để làm phương tiện đi lại. Ngày 12/9/2019 D đã dùng làm phương tiện đi mua ma túy thì bị bắt và thu giữ chiếc xe mô tô.

Do các hành vi nêu trên, tại bản cáo trạng số: 08/CT-VKSSM, ngày 02 tháng 01 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã truy tố bị cáo Lường Văn D về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

- Bị cáo Lường Văn D khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng nêu.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lường Văn D, phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Lường Văn D từ 24 đến 30 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định. Vật chứng: Xử lý theo quy định của pháp luật.

Bị cáo N trí với nội dung cáo trạng đã truy tố và phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát tại phiên tòa, không có tranh luận gì đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ và các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, lời khai của bị cáo tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Xét về hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện Sông Mã, Điều tra viên, Viện kiểm sát huyện Sông Mã, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét về hành vi phạm tội: Bị cáo Lường Văn D là người có nhận thức, biết được mọi hành vi liên quan đến ma túy đều bị Nhà nước nghiêm cấm nhưng do nghiện chất ma túy ngày 12/9/2019, bị cáo đi mua và cố ý tàng trữ 0,37 gam Methamphatamine mục đích để sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang.

Hành vi của bị cáo được chứng minh bằng các chứng cứ sau:

Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 08 giờ 30 phút ngày 12/9/2019 tại bản P, xã B huyện Sông Mã đối với Lường Văn D cùng vật chứng thu giữ 01 gói nilon màu trắng bên trong có chất 04 viên nén màu hồng.

Biên bản mở niên phong, xác định khối lượng, lấy mẫu giám định, niêm phong vật chứng hồi 10 giờ 30 phút ngày 13/9/2019 và kết luật giám định số 1494 ngày 17/9/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận:

“Mẫu gửi giám định ký hiệu D là ma túy; loại Methamphetamine; khối lượng của mẫu gửi giám định là: 0,37 gam”.

- Lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với các chứng cứ khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án.

Từ những chứng cứ nêu trên HĐXX có đủ cơ sở kết luận: Hành vi của Lường Văn D đã phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[3] Xét về tính chất và mức độ của hành vi phạm tội: Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng, mặc dù nhận thức được mọi hành vi liên quan đến chất ma túy đều bị Nhà nước nghiêm cấm, nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện, đã xâm phạm đến trật tự quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương và là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm khác. Cần xử lý thật nghiêm minh đối với bị cáo.

[4] Xét về nhân thân và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu là đối tượng nghiện chất ma túy vào năm 2016 đã bị Tòa án nhân dân huyện Sông Mã xử phạt 26 tháng tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy chưa được xóa án tích nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để rèn luyện bản thân trở thành người có ích cho gia đình và xã hội, từ bỏ chất ma túy nay lại tiếp tục mua ma túy về sử dụng thì bị bắt quả tang. Do đó cần có một mức án tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, đảm bảo biện pháp răn đe, giáo dục riêng và phòng ngừa chung trong toàn xã hội.

Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, nhận tội là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo có 01 tiền án chưa được xóa án tích nay lại phạm tội mới đã phạm vào tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” quy định điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[5] Xét về hình phạt bổ sung (phạt tiền): Xét thấy bị cáo có hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn, là đối tượng nghiện chất ma túy, không có tài sản riêng có giá trị, nên không áp dụng đối với bị cáo là phù hợp.

[6] Về nguồn gốc chất ma túy: Theo lời khai của bị can Lường Văn D là mua của bà Lò Thị S, trú tại bản D, xã B, huyện Sông Mã với giá 200.000đ. Quá trình điều tra, đối chất Lò Thị S không nhận đã bán ma túy cho D. Ngoài lời khai của D không có căn cứ nào khác, do đó không có căn cứ xử lý Lò Thị S trong vụ án là đúng quy định của pháp luật.

- Đối với chiếc xe mô tô biển kiểm soát: 26K7 - 3507 có đăng ký xe mang tên Lò Văn N. Quá trình điều tra xác định chủ sở hữu là của anh Lò Văn N, trú tại bản M, xã NT, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La cho Lường Văn D (là anh rể) mượn từ tháng 8 năm 2019 để làm phương tiện đi lại. Ngày 12/9/2019 D đã dùng làm phương tiện đi mua ma túy thì bị bắt và thu giữ chiếc xe mô tô, anh N không biết, không liên quan. Tại phiên tòa, anh N có ý kiến xin lại chiếc xe máy trên là có căn cứ, cần chấp nhận.

- Đối với điện thoại di động hiệu QMOBILE là tài sản riêng của bị cáo không liên quan đến việc phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo.

[8] Về vật chứng của vụ án: Đối với 01 mảnh nilon màu trắng và 01 vỏ phong bì thư niêm phong ban đầu là những vật không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố bị cáo Lường Văn D phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Xử phạt bị cáo Lường Văn D 28 (hai tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 12/9/2019.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

3. Vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 mảnh nilon màu trắng và 01 vỏ phong bì thư niêm phong ban đầu.

- Trả lại cho anh Lò Văn N 01 chiếc xe mô tô hiệu HONDA, loại Wave an pha, màu đỏ, đen; số máy: 1441033; số khung: 240114; có BKS: 26K7 - 3507, xe có 01 gương chiếu hậu bên trái, đã qua sử dụng.

- Trả lại cho bị cáo Lường Văn D 01 chiếc điện thoại di động hiệu QMOBILE, màu đen, viên màu đỏ, có số imel 1: 353623097669065; số mel 2: 353623097669073, đã qua sử dụng, nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng tài sản ngày 02/01/2020 của Chi cục thi hành án Dân sự huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La).

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Bị cáo Lường Văn D phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

5. Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

196
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 04/2020/HS-ST ngày 15/01/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:04/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sông Mã - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về