TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRIỆU SƠN, TỈNH THANH HÓA
BẢN ÁN 04/2020/HS-ST NGÀY 15/01/2020 VỀ TỘI GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG
Ngày 15 tháng 01 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 76/2019/TLST-HS ngày 12 tháng 12 năm 2019, Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 76/2019/QĐXXST-HS ngày 31/12/2019, đối với bị cáo;
1. Nguyễn Văn H sinh năm 1993; sinh tại huyện S tỉnh H; nơi cư trú: Thôn N, xã N1, huyện S, tỉnh H; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn D và bà Nguyễn Thị X; vợ là Lê Thị Th sinh năm 1995; tiền án: Tại bản án số 51/2012/HSST ngày 30/8/2012 của TAND huyện S xử phạt 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; bản án số 06/2015/HSST ngày 20/01/2015 của Tòa án nhân dân huyện S, tỉnh H xử phạt Nguyễn Văn H 15 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” và phải bồi thường số tiền 3.064.000đ và án phí hình sự và dân sự thì đến ngày 28/10/2016 H đã thi hành xong phần hình phạt tù và phần án phí còn chưa thi hành xong phần bồi thường. Bản án số 24/2019/HS-ST, ngày 18/6/2019 bị Tòa án nhân dân huyện S, tỉnh H xử phạt H 24 tháng tù về tội “Cố ý gấy thương tích” do có kháng cáo nên tại thời điểm H phạm tội chưa có hiệu lực pháp luật, ngày 02/10/2019 Tòa án nhân dân tỉnh H đình chỉ xét xử phúc thẩm; tiền sự: Ngày 03/01/2019 bị công an huyện S xử phạt vi phạm hành chính về hành vi xâm hại sức khỏe người khác, H vẫn chưa nộp tiền; về nhân thân: Ngày 25/01/2015 bị công an huyện S xử phạt vi phạm hành chính về hành vi xâm hại sức khỏe người khác và “Trộm cắp tài sản”, H vẫn chưa nộp tiền; bị bắt tạm giam từ ngày 04/09/2019 (có mặt tại phiên tòa).
* Người làm chứng:
1. Anh Hà Văn C, sinh năm 1997 (vắng mặt)
2. Anh Trịnh Ngọc Kh, sinh năm 1998 (vắng mặt)
3. Anh Hà Quang S, sinh năm 1998 (vắng mặt)
4. Anh Nguyễn Tuấn Đ, sinh năm 1991 (vắng mặt)
Cùng địa chỉ: Thị trấn S, huyện S1, tỉnh H.
5. Anh Hà Công P, sinh năm 1992 (vắng mặt)
Địa chỉ: Thôn 4, xã C, huyện S, tỉnh H.
6. Anh Nguyễn Thanh T, sinh năm 2000 (vắng mặt)
Địa chỉ: Thôn Y, xã N, huyện S, tỉnh H.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 23 giờ ngày 10/08/2019, Nguyễn Văn H, sinh năm 1993 ở thôn N, xã N1, huyện S, tỉnh H nghe tin vợ mình là chị Lê Thị Th, sinh năm 1995 ở thôn C, xã T, huyện S bị tai nạn giao thông đang cấp cứu ở bệnh viện đa khoa huyện S, nên đi đến bệnh viện và gặp anh Nguyễn Tuấn Đ, sinh năm 1991 ở thị trấn S và anh Nguyễn Thanh T, sinh năm 2002 ở thôn Y, xã N, huyện S. Khi đang nói chuyện với anh Đ và anh T thì H thấy anh Hà Văn C, sinh năm 1997 ở thị trấn S nghe tin chị Th bị tai nạn nên đến bệnh viện, H đuổi anh C về nhưng anh C không về H đã hò hét, chửi bới và giật gậy cao su của ông Hà Xuân L, sinh năm 1965 ở thôn 1, xã C, huyện S (là bảo vệ bệnh viện) nhưng không được. H tiếp tục chạy lại bồn hoa, đối diện phòng khám lấy một đoạn luồng dài 93 cm, đường kính 07 cm đuổi đánh. Anh C chạy vòng lên sảnh rồi chạy dọc theo hành lang khoa khám bệnh. Khi chạy được ra cổng chính thì thấy H cầm gây chặn đường nên anh C chạy ngược vào trong bệnh viện trốn. Lúc này anh Đ ôm được H nhặt vứt gậy của H vào bồn hoa. Anh C tiếp tục ra cổng thì lại gặp H, H nhặt một viên gạch bằng xi măng kích thước 20cmx10cm và một viên gạch đỏ kích thước 10cmx10cmx06cm đuổi đánh anh C thì được anh Đ và anh T can ngăn, anh C ra cổng và đi về. Tại thời điểm này, anh Hà Công P sinh năm 1992 ở thôn 4, xã Minh C, huyện S, là người va chạm giao thông với chị Th và bị thương cũng được anh Trịnh Ngọc Kh sinh năm 1998 và anh Hà Quang S sinh năm 1998 cùng ở thị trấn S đưa đến bệnh viện đa khoa huyện S điều trị. Khi anh S và anh Kh đang đưa anh P từ khoa ngoại đến khoa khám bệnh thì gặp H, H liền nhặt một viên gạch đỏ kích thước 10x10x06cm hò hét, chửi bới, đuổi đánh anh S và anh Kh. H đuổi đến căng tin của bệnh viện thì không thấy anh S và anh Kh nên vứt gạch ở khoa khám bệnh rồi đi vào phòng khám số 1 thì thấy anh P trên đầu quấn băng đoán là anh P vừa va chạm giao thông với Th, H xông vào đánh anh P nhưng được các y, bác sỹ can ngăn nên chỉ trúng 01 cái vào đầu. Các y, bác sỹ thấy H hò hét, chửi bới, đánh P nên phải di chuyển các bệnh nhân và người nhà bệnh nhân ra khỏi vị trí khám bệnh. Chuyển một số bệnh nhân về điều trị tại các trạm xá. Khi H đưa chị Th đến khoa ngoại thì gọi điện cho Cao Phương A sinh năm 1999 ở thị trấn S và bảo Phương A đem cho H 01 lưỡi lê, Phương A đến và đưa lưỡi lê cho H, đồng thời Phương A ra cổng bệnh viện đứng. H cầm lưỡi lê chạy đi tìm anh Kh và anh S. Nhìn thấy H anh Kh và anh S vội chạy vòng từ khoa cấp cứu ra cổng chính. Phương A cầm gậy luồng đuổi theo anh Kh và anh S, nhưng do nhận ra đó là người quen nên không đuổi theo nữa.
Công an điều tra đã thu giữ 01 gậy luồng dài 95cm, đường kính 07cm đã bị vỡ; 01 gậy luồng dài 90,5 cm, đường kính 07cm; 01 gậy luồng dài 93 cm, đường kính 07 cm; một viên gạch xi măng kích thước 20cmx10cm đã bị vỡ; 01 viên gạch đỏ kích thước 10cmx10cmx6cm; 01 lưỡi lê có chiều dài 30cm, phần cán dài 09cm, lưỡi 21cm; 01 bao đựng lưỡi lê dài 23cm.
Về bồi thường dân sự: Anh Hà Công P và Hà Quang S không có yêu cầu gì. Ngày 13/8/2019, bệnh viện đa khoa huyện Triệu Sơn có công văn số 385/CV-BVĐK với nội dung sự việc diễn ra đêm ngày 10/8/2019 đã làm ảnh hưởng đến quá trình khám chữa bệnh; gây tâm lý hoang mang lo lắng cho y, bác sỹ, cho bệnh nhân và người nhà bệnh nhân; làm mất trật tự tại bệnh viện.
Qua quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, sau khi xét hỏi và tranh luận, Nguyễn Văn H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng.
Cáo trạng số: 01/CT-VKS ngày 11/12/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa đã truy tố Nguyễn Văn H về tội “Gây rối trật tự công cộng”, theo quy định tại điểm b, e khoản 2 Điều 318 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện S đề nghị Hội đồng xét xử:
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Gây rối trật tự công cộng”.
Về hình phạt: Áp dụng điểm b, e khoản 2 Điều 318; điểm s, khoản 1 Điều 51; Điều 38 BLHS phạt H từ 30 đến 34 tháng tù.
Áp dụng: Điều 56 BLHS tổng hợp với 24 tháng tù của Bản án số 24/2019/HS-ST ngày 18/6/2019 của Tòa án nhân dân huyện S. Buộc phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án.
Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam (ngày 04/09/2019).
Về xử lý vật chứng: áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự.
Tịch thu tiêu hủy: 03 (ba) Đoạn gậy luồng; 01(một) viên gạch bằng xi măng; 01 (một) viên gạch đỏ; 01 (một) lưỡi lê và 01 bao đựng lưỡi lê Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo đã biết tội của mình, xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, để sớm về với gia đình và xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố, đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện hợp pháp.
[2] Hành vi của bị cáo khoảng 23 giờ ngày 10/08/2019, Nguyễn Văn H, nghe tin vợ mình là chị Lê Thị Th bị tai nạn giao thông đang cấp cứu ở bệnh viện đa khoa huyện S, nên đi đến bệnh viện. Sau đó H thấy anh Hà Văn C đến bệnh viện, H liền đuổi C về nhưng C không về H đã hò hét, chửi bới và giật gậy cao su của ông Hà Xuân L (là bảo vệ bệnh viện), nhưng không được. H tiếp tục chạy lại bồn hoa, đối diện phòng khám lấy một đoạn luồng dài 93 cm, đường kính 07 cm đuổi đánh. Anh C chạy vòng lên sảnh rồi chạy dọc theo hành lang khoa khám bệnh. Khi chạy được ra cổng chính thì thấy H cầm gậy chặn đường nên anh C chạy ngược vào trong bệnh viện trốn. Lúc này anh Đ ôm được H nhặt vứt gậy của H vào bồn hoa. Anh C tiếp tục ra cổng thì lại gặp H, H nhặt một viên gạch bằng xi măng kích thước 20cmx10cm và một viên gạch đỏ kích thước 10cmx10cmx06cm đuổi đánh anh C thì được anh Đ và anh T can ngăn, anh C ra cổng và đi về. Tại thời điểm này H gặp anh Hà Công P, là người va chạm giao thông với chị Th và bị thương cũng được anh Trịnh Ngọc Kh và anh Hà Quang S cùng ở thị trấn S đưa đến bệnh viện đa khoa huyện S điều trị đang từ khoa ngoại đi ra thì thì gặp H, H liền nhặt một viên gạch đỏ kích thước 10x10x06cm hò hét, chửi bới, đuổi đánh anh S và anh Kh. H đuổi đến căng tin của bệnh viện thì không thấy anh S và anh Kh nên vứt gạch ở khoa khám bệnh rồi đi vào phòng khám số 1 thì thấy anh P trên đầu quấn băng đoán là anh P vừa va chạm giao thông với Th, H xông vào đánh anh P nhưng được các y, bác sỹ can ngăn nên chỉ trúng 01 cái vào đầu. Các y, bác sỹ thấy H hò hét, chửi bới, đánh P nên phải di chuyển các bệnh nhân và người nhà bệnh nhân ra khỏi vị trí khám bệnh. Chuyển một số bệnh nhân về điều trị tại các trạm xá. Khi H đưa chị Th đến khoa ngoại thì gọi điện cho Cao Phương A và bảo Phương A đem cho H 01 lưỡi lê, Phương A đến và đưa lưỡi lê cho H. H cầm lưỡi lê chạy đi tìm anh Khải và anh S. Nhìn thấy H anh Kh và anh S vội chạy vòng từ khoa cấp cứu ra cổng chính.
Hành vi của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, báo cáo của công an thị trấn và các tài liệu chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án.
Tại bản án số 51/2012/HSST ngày 30/8/2012 của TAND huyện S xử phạt 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và bản án số 06/2015/HSST ngày 20/01/2015 của Tòa án nhân dân huyện S, tỉnh H xử phạt Nguyễn Văn H 15 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” và phải bồi thường số tiền 3.064.000đ và án phí hình sự và dân sự thì đến ngày 28/10/2016 H đã thi hành xong phần hình phạt tù và phần án phí còn chưa thi hành xong phần bồi thường đến ngày 10/8/2019 thì H thực hiện hành vi phạm tội do lỗi cố ý nên thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 53 Bộ luật Hình sự được áp dụng làm tình tiết tăng nặng định khung.
Như vậy Hội đồng xét xử nhận thấy đã có đủ cơ sở kết luận các bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Gây rối trật tự công cộng” tội phạm và hình phạt quy định tại điểm điểm b, e khoản 2, Điều 318 Bộ luật Hình sự.
Vụ án thuộc loại tội phạm nghiêm trọng, tính chất và mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo: Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm mà bị cáo thực hiện có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn gây ảnh hưởng đến trật tự trị an xã hội và trên địa bàn, xâm phạm an toàn công cộng, gây bức xúc trong dư luận quần chúng nhân dân; gây tâm lý hoang mang lo sợ cho các y, bác sỹ cũng như bệnh nhân và người nhà bệnh nhân, bị cáo nhận thức đầy đủ về tính chất nguy hiểm cũng như hậu quả của hành vi do mình thực hiện, nhưng vẫn cố ý thực hiện tội phạm nên phạm tội do lỗi cố ý trực tiếp.
Động cơ và mục đích của bị cáo là vì vợ bị tai nạn nên bị cáo đã có hành vi lùa đánh người và “Gây rối trật tự công cộng”.
Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng; tiền án: Đã bị xử án 02 lần; tiền sự: 01 lần; về nhân thân có 01 lần nên cần phải xử phạt tù bị cáo, nhằm giáo dục, cải tạo người phạm tội trở thành người tốt. Nhưng khi lượng hình phạt cần xem xét giảm hình phạt cho bị cáo, tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Tại bản án ngày 18/6/2019 của Tòa án nhân dân huyện S, tỉnh H xử phạt Hiếu 24 tháng tù về tội “Cố ý gấy thương tích” do có kháng cáo nên tại thời điểm Hiếu phạm tội chưa có hiệu lực pháp luật. Ngày 02/10/2019 Tòa án nhân dân tỉnh H đình chỉ xét xử phúc thẩm nên áp dụng Điều 56 Bộ luật hình sự tổng hợp hình phạt của nhiều bản án.
Cao Phương A đã bị Công an huyện S xử phạt vi phạm hành chính nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Về bồi thường thiệt hại: Anh Hà Công P và Hà Quang S không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm, đây là sự tự nguyện không trái với đạo đức xã hội và quy định của pháp luật. Nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Đề nghị của Viện kiểm sát: Đề nghị hình phạt của Viện kiểm sát tại phiên tòa đối với bị cáo, là phù hợp có căn cứ đủ để giáo dục cải tạo bị cáo trở thành người lương thiện, người công dân có ích cho xã hội.
[3] Về xử lý vật chứng và các vấn đề khác: Áp dụng: Khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Cần xử lý vật chứng mà Cơ quan quan Điều tra đã thu giữ như sau: 03 (ba) Đoạn gậy luồng; 01(một) viên gạch bằng xi măng; 01 (một) viên gạch đỏ; 01 (một) lưỡi lê và 01 bao đựng lưỡi lê. Vật chứng không có giá trị thì bị tịch thu và tiêu hủy.
Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản kê biên số 08/VC/2020 ngày 13/12/2019 của Chi cục thi hành án dan sự huyện Triệu Sơn.
[4] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm b, e khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; 56 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Tuyên bố bị cáo: Nguyễn Văn H phạm tội “Gây rối trật tự công cộng”. Xử phạt bị cáo: Nguyễn Văn H 30 (ba mươi) tháng tù.
Tổng hợp hình phạt của bản án này với hình phạt 24 (hai mươi bốn) tháng tù của bản án số 24/2019/HS-ST ngày 18/6/2019 của Tòa án nhân dân huyện S, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 54 (năm mươi bốn) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tính từ ngày 04/09/2019.
Về phần dân sự: Không có ai yêu cầu gì. Về xử lý vật chứng:
Áp dụng: Khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Xử:
Tịch thu và tiêu hủy 03 (ba) Đoạn gậy luồng; 01(một) viên gạch bằng xi măng; 01 (một) viên gạch đỏ; 01 (một) lưỡi lê và 01 bao đựng lưỡi lê.
Toàn bộ vật chứng hiện đang lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Triệu Sơn theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 08/VC/2020 ngày 13/12/2019.
Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Buộc bị cáo Nguyễn Văn H phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày 15 tháng 01 năm 2020.
Bản án 04/2020/HS-ST ngày 15/01/2020 về tội gây rối trật tự công cộng
Số hiệu: | 04/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Triệu Sơn - Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 15/01/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về