Bản án 04/2019/HS-ST ngày 28/02/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN HẢI AN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 04/2019/HS-ST NGÀY 28/02/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 02 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hải An, thànhphố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số01/2019/TLST-HS ngày 28 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 03/2019/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 02 năm 2019 đối với bị cáo:

Vũ Tiến C, sinh ngày 27 tháng 01 năm 1988 tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Số 7/12/315 Đ, phường C, quận N, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: Lớp 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Tiến Đ (đã chết) và bà Nguyễn Thị M; có vợ là Nguyễn Thị G và một con; tiền án, tiền sự, nhân thân: Tại Bản án số 170/STHS ngày 09 tháng 6 năm 2004 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xử phạt 05 năm tù về tội Cướp tài sản (đã được xóa án tích); bị tạm giữ từ ngày 06 tháng 11 năm 2018, đến ngày 09 tháng 11 năm 2018 chuyển tạm giam. Có mặt.

- Người chứng kiến:

1. Anh Phạm Minh N. Vắng mặt.

2. Anh Vũ Trọng L. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do có nhu cầu sử dụng ma túy nên khoảng 21 giờ 30 phút ngày 05 tháng 11 năm 2018, Vũ Tiến C gọi điện cho đối tượng tên T (là bạn xã hội) để hỏi mua ma túy và được T hẹn đến khu vực ngã tư đường L, phường M, quận N, thành phố Hải Phòng. Sau đó, C đi xe mô tô Honda Airblade màu đen, biển kiểm soát 15B1- 108.32 (C mượn của bà Vũ Thị V) đến điểm hẹn. Tại đây, C đưa cho T 700.000 đồng để mua ma túy. T nhận tiền và nói với C là ma túy để tại rãnh đường tàu ngã tư đường L, thành phố Hải Phòng. C quay ra khu vực đó tìm thấy 01 gói giấy báo, bên trong có 01 túi nilon kích thước 05cmx07cm chứa 05 viên nén màu hồng có chữ “LV”; C cầm số ma túy vừa mua được ở lòng bàn tay trái rồi đi xe về khu vực phường T, quận H, thành phố Hải Phòng. Đến khoảng 22 giờ 30 phút cùng ngày, khi C đi trên đường L đến đoạn trước cổng Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng thì bị tổ công tác Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an quận Hải An phát hiện, kiểm tra và thu giữ tại lòng bàn tay trái của C 01 gói giấy báo bên trong có 01 túi nilon kích thước 05cmx07cm chứa 05 viên nén màu hồng có chữ “LV”. Ngoài ra Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Hải An còn thu giữ của C 01 xe máy nhãn hiệu Honda Airblade, màu đen, biển kiểm soát 15B1-108.32 và 01 điện thoại di động Nokia 1280 màu đen (đã qua sử dụng).

Tại Kết luận giám định số 602/KLGĐ(Đ6) ngày 08 tháng 11 năm 2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng kết luận: Mẫu viên nén gửi giám định là ma túy, có khối lượng 1,6389 gam, là loại MDMA.

Đối với xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade màu đen, biển kiểm soát 15B1- 108.32: Ngày 19 tháng 12 năm 2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Hải An đã trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là bà Vũ Thị V.

Bản cáo trạng số 03/CT-VKS ngày 24 tháng 01 năm 2019 của Viện Kiểm sát nhân dân quận Hải An, thành phố Hải Phòng truy tố bị cáo Vũ Tiến C về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Hải An giữ quyền C tố luận tội:

Giữ nguyên quyết định truy tố đối với Vũ Tiến C về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Về hình phạt: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249 và điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015; đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo từ 24 tháng đến 30 tháng tù. Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy bì thư sau giám định bên trong có chứa chất ma túy MDMA. Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước điện thoại di động Nokia 1280 màu đen (đã qua sử dụng) thu giữ của bị cáo.

Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo Vũ Tiến C nhất trí với bản luận tội của đại diện Viện

Kiểm sát nhân dân quận Hải An. Trong lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, xử phạt bị cáo mức hình phạt nhẹ nhất để bị cáo sớm được trở về với gia đình, tái hòa nhập cộng đồng và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Hải An, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân quận Hải An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Lời khai nhận của bị cáo tại Cơ quan Cảnh sát điều tra và tại phiên tòa phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 05 tháng 11 năm 2018, trước cổng Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng trên đường L,Vũ Tiến C bị bắt quả tang đang cất giữ, cất giấu bất hợp pháp ở lòng bàn tay trái 01 gói giấy báo bên trong có 01 túi nilon kích thước 05cmx07cm chứa 05 viên nén màu hồng có chữ “LV”; theo kết luận giám định là ma túy, có khối lượng 1,6389 gam, là loại MDMA. MDMA là chất ma túy tuyệt đối cấm sử dụng trong y học và đời sống xã hội, nằm trong Danh mục I, STT 27 ban hành kèm theo Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Chính phủ. Việc cất giữ, cất giấu chất ma túy của bị cáo không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển hay sản xuất trái phép chất ma túy. Do đó, bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý của Nhà nước về việc cất giữ chất ma túy, là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác, gây mất trật tự trị an tại địa phương nên cần xét xử nghiêm nhằm mục đích giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại giai đoạn điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

[6] Về hình phạt chính: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng, có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Năm 2004, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xử phạt bị cáo 05 năm tù về tội “Cướp tài sản”. Đối với tiền án này, tuy đã được xóa án tích nhưng thể hiện bị cáo là người không có ý thức sửa chữa sai lầm, coi thường pháp luật. Vì vậy, cần xử bị cáo trên mức khởi điểm của khung hình phạt, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ sức răn đe.

[7] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì “người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng”. Tuy nhiên, các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thể hiện, bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập ổn định. Vì vậy, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[8] Về xử lý vật chứng: MDMA là chất ma túy cấm lưu hành; vì vậy, tịch thu tiêu hủy bì thư sau giám định bên trong có chứa chất MDMA. Đối với điện thoại di động Nokia 1280 màu đen (đã qua sử dụng) là công cụ bị cáo dùng vào việc phạm tội nên tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

[9] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[10] Đối với người đàn ông tên T đã bán ma túy cho Vũ Tiến C, tài liệu điều tra chưa xác định được lai lịch, địa chỉ; Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Hải An sẽ tiếp tục điều tra, làm rõ, xử lý theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015; xử phạt bị cáo Vũ Tiến C 02 (hai) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 06 tháng 11 năm 2018.

2. Không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo Vũ Tiến C.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào khoản 2 Điều 106 của Bô luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu hủy bì thư có dấu hiệu niêm phong số 602/PC54 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng; tịch thu sung vào ngân sách nhà nước điện thoại di động Nokia 1280 màu đen đã qua sử dụng (theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 24 tháng 01 năm 2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Hải An, thành phố Hải Phòng).

4. Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Vũ Tiến C phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

184
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 04/2019/HS-ST ngày 28/02/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:04/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hải An - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về