Bản án 04/2019/HS-ST ngày 09/01/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BẾN CÁT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 04/2019/HS-ST NGÀY 09/01/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 09 tháng 01 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 243/2019/TLST-HS ngày 16 tháng 12 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 245/2019/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 12 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Việt T, sinh năm 1992, tại Thành phố Hồ Chí Minh; địa chỉ thường trú: Số 106/2 Đ, Phường 17, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở hiện tại: Số 106/2 Đ, Phường 17, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Tài xế; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 9/12; con ông Nguyễn Việt H, sinh năm 1968 và bà Trịnh Thị Thu T, sinh năm 1971; có 02 anh em, lớn nhất sinh là bị cáo, nhỏ nhất sinh năm 1999; có 01 con, sinh năm 2013; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giam từ ngày 05/9/2019; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Nguyễn Thanh H, sinh năm 1965; địa chỉ thường trú: Số 113 N, Phường 26, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 23 giờ 35 phút ngày 05/9/2019, Đội Cảnh sát Điều tra tội phạm về ma túy Công an thị xã Bến Cát phối hợp với Công an xã P bắt quả tang Nguyễn Việt T đang cất giấu 01 (một) bịch nylon hàn kín bên trong chứa tinh thể màu trắng trong túi quần phía trước, bên phải, 01 (một) ống thủy tinh (nỏ) trong túi xách da màu nâu tại khu vực trước nhà trọ Q đường DT744 thuộc ấp A, xã P, thị xã B, tỉnh Bình Dương. T khai là ma túy và dụng cụ sử dụng ma túy. Lực lượng Công an tiến hành lập biên bản bắt quả tang đối với Nguyễn Việt T, tiến hành thu giữ: 01 (một) bịch nylon hàn kín bên trong chứa tinh thể màu trắng; 01 (một) ống thủy tinh (nỏ) là dụng cụ sử dụng ma túy; 01 (một) xe môtô nhãn hiệu Wave biển số 70F1-671501, màu xanh đen, số khung RLHJA3910; 01(một) điện thoại di động hiệu Samsung.

Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Việt T khai: T sử dụng trái phép chất ma túy từ tháng 8/2019. Nguồn ma túy T có để sử dụng là do T nhờ đối tượng tên H (không rõ nhân thân, lai lịch) ở khu công nghiệp S thuộc thị xã D, tỉnh Bình Dương mua dùm. Khoảng 20 giờ ngày 05/9/2019, T cất 01 (một) ống thủy tinh (nỏ) trong túi xách da màu nâu và điều khiển xe môtô nhãn hiệu Wave biển số 70F1-671501 đi đến khu công nghiệp S nhờ đối tượng tên H mua dùm 200.000 đồng ma túy. Đối tượng tên H đồng ý và mua giúp T. Sau khi nhận được ma túy từ H, T điều khiển xe môtô biển số 70F1-671501 chạy về nhà mẹ ruột là Trịnh Thị Thu T ở phường Đ, thành phố T, tỉnh Bình Dương để sử dụng ma túy. Khi đến nhà, T lấy ma túy vừa mua được ra sử dụng một ít, số còn lại T bỏ vào túi quần phía trước, bên phải của chiếc quần T đang mặc. Một lúc sau, anh rể của T là Đặng Quốc H (sinh năm 1989, hộ khẩu thường trú: Số 336 Đ, khu phố 1, phường P, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương) gọi điện thoại rủ T lên nhà H ở ấp A, xã A, thị xã B, tỉnh Bình Dương chơi. H nói với T nếu có ma túy thì mang lên nhà H cho H sử dụng ma túy chung. T đồng ý và mang theo 01 (một) ống thủy tinh (nỏ) bỏ trong túi xách da màu nâu cùng số ma túy còn lại, sau đó T điều khiển xe môtô nhãn hiệu Wave biển số 70F1-671501 đến nhà H. Đến khoảng 23 giờ 35 phút ngày 05/9/2019 khi T chạy đến khu vực trước nhà trọ Q đường DT744 thuộc ấp A, xã A, thị xã B, tỉnh Bình Dương thì bị phát hiện, bắt quả tang như trên.

Theo Kết luận giám định số 675/MT-PC09 ngày 10/9/2019 của Phòng kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bình Dương, xác định: M u tinh thể gửi giám định là ma túy, có khối lượng/trọng lượng là 0,1414 gam; loại Methamphetamine. M u vật sau giám định được niêm phong, có trọng lượng 0,0830 gam Methamphetamine.

Đi với xe môtô nhãn hiệu Wave biển số 70F1-671501, màu xanh đen, số khung RLHJA3910: Xe do ông Lại Lộc P (sinh năm 1990; hộ khẩu thường trú: Khu phố T, thị trấn G, tỉnh Tây Ninh) đứng tên chủ sở hữu. Khoảng tháng 06/2019, ông P bán xe cho mẹ vợ là Nguyễn Thanh H với giá 7.500.000 đồng nhưng chưa làm thủ tục sang tên. Ngày 05/9/2019, bà H cho cháu họ là Nguyễn Việt T mượn xe để đi về nhà mẹ ruột. Việc T sử dụng xe môtô nhãn hiệu Wave biển số 70F1-671501 đi mua và cất giấu, tàng trữ ma túy bà H không biết. Ngày 31/10/2019, Cơ quan Cảnh sát Điều tra ra quyết định xử lý vật chứng số giao trả xe này cho bà Nguyễn Thanh H. Bà H không có yêu cầu gì thêm.

Tại bản Cáo trạng số 04/CT-VKS ngày 13/12/2019 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Nguyễn Việt T về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên toà, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương tham gia phiên toà phát biểu ý kiến: Giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Việt T về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Đại diện Viện Kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Nguyễn Việt T từ 12 đến 18 tháng tù.

- Về xử lý vật chứng của vụ án: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 đề nghị tịch thu tiêu hủy: 01 (một) Bì thư dán kín số 675/MT-PC09 được niêm phong có hình dấu đỏ của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bình Dương bên trong chứa 0,0830 gam; loại Methamphetamine; 01 (một) ống thủy tinh (nỏ) là dụng cụ sử dụng ma túy. Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Samsung.

Bị cáo Nguyễn Việt T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội.

Trong quá điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến về quyết định truy tố của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, nội dung bản Cáo trạng số 04/CT-VKS ngày 13/12/2019 và Kết luận giám định số 675/MT- PC09 ngày 10/9/2019 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bình Dương.

Tại phiên tòa, bị cáo không đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập luận gì để đối đáp với Kiểm sát viên về nội dung luận tội của Kiểm sát viên.

Lời nói sau cùng của bị cáo trước khi Hội đồng xét xử nghị án: Bị cáo đã nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Những chứng cứ xác định có tội:

Tại phiên toà, bị cáo Nguyễn Việt T đã thành khẩn khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy như nội dung Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương truy tố. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, các tài liệu, chứng cứ thu giữ trong vụ án, biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng. Hội đồng xét xử có căn cứ kết luận:

Lúc 23 giờ 35 phút ngày 05/9/2019, tại tại khu vực trước nhà trọ Q đường DT744 thuộc ấp A, xã A, thị xã B, tỉnh Bình Dương, Nguyễn Việt T có hành vi cất giấu 01 (một) bịch nylon hàn kín bên trong chứa 0,1414 gam Methamphetamine trong túi quần phía trước, bên phải của chiếc quần dài T đang mặc để tàng trữ nhằm mục đích sử dụng. Do đó, hành vi mà bị cáo Nguyễn Việt T đã thực hiện đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

3 Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma tuý, gây tác hại xấu đến trật tự công cộng và an toàn xã hội. Việc mua, tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy là nguyên nhân làm phát sinh nhiều tệ nạn xã hội như: Trộm cắp, cướp giật, đặc biệt là nguy cơ lây nhiễm căn bệnh HIV/AIDS qua con đường tiêm chích ma túy. Loại ma túy mà bị cáo tàng trữ là Methamphetamine, đây là loại độc dược gây nghiện, có nhiều tác hại cho sức khỏe con người. Hiện nay, tệ nạn hút chích ma túy đang là gánh nặng cho gia đình và xã hội, trong khi Nhà nước không ngừng tuyên truyền giáo dục và vận động toàn xã hội ra sức đấu tranh phòng chống tệ nạn ma túy thì v n còn những người vì mục đích tư lợi đã lén lút họat động tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy, bất chấp pháp luật và hậu quả gây ra cho xã hội.

Về tình tiết định khung hình phạt: Hành vi phạm tội của bị cáo không vi phạm các tình tiết định khung tăng nặng khung hình phạt nên chỉ xét xử ở khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải. Do đó, bị cáo thuộc trường hợp được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự.

Đi chiếu với các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tính chất mức độ phạm tội cũng như nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy mức hình phạt mà đại diện Viện Kiểm sát đề nghị đối với bị cáo là phù hợp nên có cơ sở chấp nhận.

[4] Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng:

Đi với xe môtô nhãn hiệu Wave biển số 70F1-671501, màu xanh đen, số khung RLHJA3910: Xe này do ông Lại Lộc P đứng tên chủ sở hữu. Tuy nhiên, khoảng tháng 06/2019, P bán xe cho mẹ vợ là bà Nguyễn Thanh H với giá 7.500.000 đồng nhưng chưa làm thủ tục sang tên. Ngày 05/9/2019, bà H cho cháu họ là Nguyễn Việt T mượn xe để đi về nhà mẹ ruột. Việc bị cáo T sử dụng xe này đi mua và cất giấu, tàng trữ ma túy bà H không biết. Do đó, ngày 31/10/2019, Cơ quan Cảnh sát Điều tra ra quyết định xử lý vật chứng giao trả xe này cho bà Nguyễn Thanh H và bà H không có yêu cầu gì thêm. Hội đồng xét xử xét thấy phù hợp nên không đặt ra xem xét, giải quyết.

Đi với 01 (một) Bì thư dán kín số 675/PC09 được niêm phong có hình dấu đỏ của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bình Dương bên trong chứa 0,0830 gam; loại Methamphetamine: Đây là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ và lưu hành. Căn cứ theo điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cần phải tịch thu, tiêu hủy.

Đi với 01 (một) ống thủy tinh (nỏ) là dụng cụ bị cáo sử dụng ma túy, không có giá trị sử dụng nên căn cứ theo điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cần phải tịch thu, tiêu hủy.

Đi với 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung màu đen: Đây là phương tiện bị cáo sử dụng vào việc phạm tội nên căn cứ theo điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

[5] Đối với đối tượng H (không rõ nhân thân, lai lịch) là người đã mua ma túy giúp cho T: Cơ quan Cảnh sát Điều tra đang tiếp tục điều tra làm rõ, khi xác định được sẽ xử lý sau.

[6] Đối với Đặng Quốc H có hành vi “sử dụng trái phép chất ma túy”: Ngày 19/11/2019, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã A ra Quyết định số 309/QĐ-UBND áp dụng biện pháp xử lý hành chính “áp dụng biện pháp giáo dục tại xã A” trong thời hạn 03 tháng, kể từ ngày 19/11/2019 đến ngày 19/02/2020. Việc ban hành quyết định này là phù hợp, có căn cứ.

[7] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Căn cứ điểm a, c khoản 2 Điều 106 và Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Căn cứ vào Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Việt T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Việt T 01 (một) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 05/9/2019.

2. Về trách nhiệm dân sự và về xử lý vật chứng:

Tch thu tiêu hủy: 01 (một) Bì thư dán kín số 675/PC09 được niêm phong có hình dấu đỏ của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bình Dương bên trong chứa 0,0830 gam, loại Methamphetamine và 01 (một) ống thủy tinh (nỏ).

Tch thu nộp ngân sách nhà nước: 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung màu đen (không kiểm tra được modern, máy bị trày xước).

(Vật chứng được thể hiện tại Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 19/12/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Bến Cát giữa Công an thị xã Bến Cát và Chi cục Thi hành án dân thị xã Bến Cát) 4. Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Nguyễn Việt T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo:

Bị cáo được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày Tòa tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết công khai./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

240
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 04/2019/HS-ST ngày 09/01/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:04/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Bến Cát - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về