Bản án 04/2019/HSST ngày 07/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐS, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 04/2019/HSST NGÀY 07/03/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 07/03/2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện ĐS, tỉnh Thanh Hóa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 04/2019/HSST ngày 25/01/2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 08/QĐXXST-HS ngày 22/02/2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Đăng T - sinh 1983; ĐKHKTT và chỗ ở: Đội 5, xã ĐH, huyện ĐS, tỉnh Thanh Hóa; Nghề nghiệp: LĐTD; Văn hóa:12/12; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Con ông: Nguyễn Châu T và bà Nguyễn Thị N (Đã chết); Vợ là Nguyễn Thị Hương G( Đã ly hôn) và có 01 con sinh năm 2006; Tiền án: Ngày 13/8/2018 Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa xử phạt 15 tháng tù về tội «Tàng trữ trái phép chất ma túy» (chưa chấp hành hình phạt); Nhân thân: Ngày 23/ 3/ 2012 Tòa án nhân dân huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương xử phạt 28 tháng tù về tội «Vận chuyển trái phép chất ma túy»; Tiền sự: Không; Tạm giữ từ ngày 11/11/2018 chuyển tạm giam từ ngày 17/11/2018 đến nay tại trại tạm giam Công an tỉnh Thanh Hóa - Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào 17h ngày 11/11/2018, tổ công tác thuộc phòng CSĐT tội phạm về ma túy Công an tỉnh Thanh Hóa phối hợp với Công an xã ĐM, huyện ĐS đang làm nhiệm vụ tại khu vực trụ sở UBND xã ĐM thì phát hiện Nguyễn Đăng T đang điều khiển xe mô tô BKS 36B4-956.16 có nhiều biểu hiện nghi vấn, nên đã yêu cầu dừng xe để kiểm tra. Quá trình kiểm tra phát hiện trong túi quần bên phải của T có 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu “Thăng Long” màu vàng bên trong có 01 túi nilon màu trắng kích thước khoảng 3 x 4 cm đựng chất màu trắng và 01 gói giấy bọc bên ngoài bằng băng dính màu đen bên trong đựng chất màu trắng. Nguyễn Đăng T khai nhận là Hêrôin. Do vậy, tổ công tác đã tiến hành lập biên bản thu giữ vật chứng, đồng thời đưa Nguyễn Đăng T về trụ sở Công an xã ĐM, huyện ĐS để làm việc.

Cùng ngày, Phòng CSĐT tội phạm về ma túy Công an tỉnh Thanh Hóa đã tiến hành khám xét nơi ở của Nguyễn Đăng T ở đội 5, xã ĐH, huyện ĐS, tỉnh Thanh Hóa. Qua khám xét đã phát hiện, bên trong ngăn kéo của bàn uống nước đặt tại phòng khách nhà T có 01 túi nilon màu trắng kích thước khoảng 3 x4 cm bên trong đựng các cục màu trắng và 01 túi nilon màu trắng kích thước khoảng 4 x 7 cm bên trong đựng các hạt tinh thể màu trắng nghi là Hê rôin.

Tại bản kết luận giám định số 2334/MT-PC09 ngày 14/11/2018 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận: Số ma túy thu giữ được trong túi quần bên phải của Nguyễn Đăng T và số ma túy thu giữ tại ngăn kéo bàn uống nước tại phòng khách nơi ở của Nguyễn Đăng T có trọng lượng 1,369g loại Hê rôin và 0,075g loại Methamphetamin.

Quá trình điều tra, Nguyễn Đăng T khai nhận: Do Nghiện ma túy, qua giới thiệu của một người bạn nghiện ( không rõ tên và địa chỉ), nên ngày 11/11/2018, Nguyễn Đăng T đã đến khu vực gần nhà máy thuốc lá thuộc thị trấn huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa mua của một người nam giới không quen biết, không rõ tên và địa chỉ 02 gói ma túy với giá 1.000.000đ. Sau khi về nhà Nguyễn Đăng T đã chia số ma túy trên thành 04 gói nhỏ, rồi cất giấu 02 gói vào trong bàn uống nước tại phòng khách của gia đình, còn lại 02 gói Nguyễn Đăng T mang theo người để sử dụng, trên đường đi Nguyễn Đăng T bị lực lượng Công an kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang.

Đối với chiếc xe mô tô BKS 36B4-956.16 cơ quan CSĐT đã thu giữ của Nguyên Đăng T, quá trình điều tra đã xác định chiếc xe trên của anh Nguyễn Đăng C cho Nguyễn Đăng T mượn để làm phương tiện đi lại, anh C không biết Nguyễn Đăng T sử dụng xe thực hiện hành vi liên quan đến ma túy. Nên cơ quan CSĐT Công an huyện ĐS đã trả lại chiếc xe trên cho anh Cảnh theo quy định của pháp luật.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa Nguyễn Đăng T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

Về vật chứng: 01 phong bì đựng ma túy do phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa phát hành được dán kín, niêm phong bởi các chữ ký ghi rõ họ tên của Lại Thị Thanh Loan, Lê Minh Tiến, Hoàng Thị Nguyên, Nguyễn Trần Đăng, Mai Thị Xuyến và các hình dấu của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa; 01 chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Đăng T, số 172208493; 01 điện thoại NOKIA loại máy bàn phím, màu đen đã qua sử dụng.

Toàn bộ vật chứng hiện đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện ĐS theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện ĐS với Chi cục Thi hành án dân sự huyện ĐS ngày 18/01/2019.

Tại bản cáo trạng số 06/CT-VKS-ĐS ngày 23/01/2019 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện ĐS, đã truy tố bị cáo Nguyễn Đăng T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điểm i Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự 2015 .

Tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện ĐS vẫn giữ nguyên quyết định truy tố các bị cáo như nội dung bản cáo trạng và đề nghị HĐXX:

Áp dụng:

Điểm i Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1, 2 Điều 51; Điểm h Khoản 1 Điều 52; Điều 38, Điều 47; Điều 55; Điều 56 của BLHS. Điểm a Khoản 2, Điểm a khoản 3 Điều 106; Điều 135, 136 của Bộ luật tố tụng hình sự. Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14

Xử phạt: Nguyễn Đăng T từ 24 đến 30 tháng tù và tổng hợp hình phạt với hình phạt của bản án số 171/2018/HSST ngày 13.8.2018 của Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của 02 bản án.

Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy. Trả lại cho Nguyễn Đăng T 01 chứng minh thư nhân dân mang tên Nguyễn Đăng T và 01 điện thoại Nokia.

Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí HSST.

Bị cáo nhận tội, không có ý kiến tranh luận. Lời nói sau cùng bị cáo đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên:

Quá trình điều tra, truy tố Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của pháp luật. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi quyết định của người tiến hành tố tụng.

[2] Về hành vi phạm tội:

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận: Do nghiện ma túy, nên vào ngày 11/11/2018 bị cáo đến khu vực gần nhà máy thuốc lá thuộc thị trấn huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa để mua của một người đàn ông không biết tên, địa chỉ 02 gói ma túy gồm 01 gói ma túy đá, 01 gói Hê rôin với giá 1.000.000đ mục đích để sử dụng. Sau khi đem về bị cáo đã sử dụng một ít, số còn lại bị cáo san thành nhiều gói nhỏ. Đến 17h cùng ngày bị cáo lấy 02 gói ma túy mang theo người đem đi để sử dụng và khi đi đến xã Đông Minh, huyện ĐS thì bị lực lượng Công an phát hiện thu giữ 02 gói ma túy bị cáo cất trong người và cùng ngày Công an đã khám xét nơi ở của bị cáo thu giữ thêm 02 gói ma túy bị cáo để trong ngăn kéo bàn uống nước. Kết quả giám định 04 gói ma túy thu của bị cáo có trọng lượng 1,369g loại Hê rôin và 0,075 g Methamphetamin.

Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa thống nhất với lời khai tại cơ quan điều tra và phù hợp các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hành vi nêu trên của bị có đủ dấu hiệu cấu thành tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội danh và khung hình phạt được quy định tại Điểm i Khoản 1 Điều 249 của BLHS. Vì vậy VKSND huyện ĐS truy tố bị cáo Nguyễn Đăng T về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i Khoản 1 Điều 249 của BLHS là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo:

Hiện nay tệ nạn ma túy đang là hiểm họa cho toàn xã hội, là nguyên nhân làm suy thoái kinh tế, là một trong những tác nhân làm lây lan căn bệnh HIV/AIDS, làm ảnh hưởng đến sức khỏe và sự phát triển lành mạnh của giống nòi. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Vì vậy tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, nên cần phải xử lý nghiêm.

[4] Đánh giá về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS của các bị cáo: Về tình tiết tăng nặng: Trong vụ án này bị cáo thực hiện hành vi phạm tội do cố ý khi chưa được xóa án tích của bản án số 171/2018/HSST ngày 13/8/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa là thuộc trường hợp “Tái phạm”, nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng TNHS được quy định tại điểm h Khoản 1 Điều 52 của BLHS.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra, xét xử bị cáo thành khẩn khai báo và bố bị cáo là người có công với cách mạng được tặng Huân chương kháng chiến hạng ba vì đã có công lao trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Nên khi xem xét hình phạt cũng cần áp dụng Điểm s Khoản 1,2 Điều 51 của BLHS để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ vào nhân thân và tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo thì cần cách ly bị cáo ra khỏi cộng đồng xã hội một thời gian, mới có tác dụng giáo dục đối với bị cáo và có tính chất phòng ngừa chung.

Trong vụ án này bị cáo chưa chấp hành hình phạt 15 tháng tù của bản án số 171/2018/HSST ngày 13/8/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa, nên cần áp dụng Điểm a Khoản 1 Điều 55 và Khoản 2 Điều 56 của BLHS để tổng hợp hình phạt.

[5] Về vật chứng:

Đối với 01 phong bì ma túy là vật cấm tàng trữ, lưu hành. Do đó cần áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 47 của BLHS; Khoản 1, Điểm a khoản 2 Điều 106 của BLTTHS để tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Đăng T, số 172208493 và chiếc điện thoại NOKIA màu đen đã qua sử dụng thu của bị cáo không liên quan đến hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, nên trả lại cho bị cáo theo quy định tại Điểm a Khoản 3 Điều 106 của BLTTHS.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Khoản 2 Điều 136 BLTTHS và Điểm a khoản 1 Điều 23 NQ 326/2016/UBTVQH14.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

Điểm i Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1, 2 Điều 51; Điểm h Khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điểm a Khoản 1 Điều 55 và Khoản 2 Điều 56 của BLHS.

Điểm c Khoản 1 Điều 47 của BLHS; Khoản 1, Điểm a khoản 2, Điểm a Khoản 3 Điều 106 của BLTTHS.

Khoản 2 Điều 136 BLTTHS và Điểm a khoản 1 Điều 23 NQ 326/2016/UBTVQH14.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Đăng T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Nguyễn Đăng T 24 ( Hai mươi bốn) Tháng tù, tổng hợp với 15 tháng tù tại bản án số 171/2018/HSST ngày 13/8/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của 02 bản án là 39 ( Ba Mươi chín) tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 11/11/2018.

Về vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì đựng ma túy được dán kín, niêm phong bởi các chữ ký ghi rõ họ tên của Lại Thị Thanh Loan, Lê Minh Tiến, Hoàng Thị Nguyên, Nguyễn Trần Đăng, Mai Thị Xuyến và các hình dấu của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa.

Trả lại cho bị cáo Nguyễn Đăng T 01 chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Đăng T, số 172208493; 01 điện thoại NOKIA loại máy bàn phím, màu đen đã qua sử dụng.

Toàn bộ vật chứng hiện đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện ĐS theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện ĐS với Chi cục Thi hành án dân sự huyện ĐS ngày 18/01/2019.

Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000đ án phí HSST

Bị cáo có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7, 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

204
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 04/2019/HSST ngày 07/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:04/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Sơn - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về