Bản án 04/2019/HNGĐ-ST ngày 14/03/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẾN TRE – TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 04/2019/HNGĐ-ST NGÀY 14/03/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 14 tháng 3 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 61/2019/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 02 năm 2019 về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 07/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 27 tháng 02 năm 2019 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Bà Lương Thị N, sinh năm: 1980;

Địa chỉ: Số 186B, ấp BT, xã BP, thành phố BT, tỉnh Bến Tre. (Có mặt)

* Bị đơn: Ông Trần Thanh T, sinh năm: 1979;

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 186B, ấp BT, xã BP, thành phố BT, tỉnh Bến Tre;

Địa chỉ hiện nay: Số 201A4, khu phố M, Phường N, thành phố BT, tỉnh Bến Tre. (Có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện cũng như các văn bản, tài liệu chứng cứ cung cấp cho Tòa án cũng như tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn bà Lương Thị N trình bày:

Bà và ông Trần Thanh T kết hôn và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện G, tỉnh Bến Tre vào ngày 12/9/2008, hôn nhân do tự nguyện. Sau khi kết hôn, thời gian đầu vợ chồng ông bà chung sống hạnh phúc nhưng đến năm 2012 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, ông T tham gia cờ bạc, đập phá nhà cửa, uy hiếp tính mạng bà và con bà, đòi đốt nhà. Bà đã cố gắng hàn gắn nhưng không thành. Bà và ông T đã ly thân từ tháng 10 năm 2017 đến nay. Nay bà xác định không còn tình cảm với ông T nên yêu cầu xin được ly hôn.

Quá trình chung sống, bà và ông T có một con chung tên Trần Tiến Th, sinh ngày 29/4/2009. Sau khi ly hôn, bà xin được trực tiếp nuôi con chung, không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: bà và ông T tự thỏa thuận nên không yêu cầu Tòa án giải quyết

Quá trình chung sống, bà và ông T không có nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Theo đơn xin vắng mặt tại Tòa, bị đơn ông Trần Thanh T trình bày:

Ông và bà Lương Thị N kết hôn và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện G, tỉnh Bến Tre vào ngày 12/9/2008, hôn nhân do tự nguyện. Sau khi kết hôn, thời gian đầu vợ chồng ông bà chung sống hạnh phúc nhưng sau đó thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm trong cuộc sống. Ông và bà N đã cố gắng hàn gắn nhưng không thành. Ông và bà N đã ly thân từ tháng 10 năm 2017 đến nay. Nay ông xác định không còn tình cảm với bà N nên yêu cầu xin được ly hôn.

Quá trình chung sống, ông và bà N có một con chung tên Trần Tiến Th, sinh ngày 29/4/2009. Sau khi ly hôn, bà N sẽ là người được trực tiếp nuôi cháu Th, ông không cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: ông và bà N tự thỏa thuận nên không yêu cầu Tòa án giải quyết

Quá trình chung sống, ông và bà N không có nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Do không có thời gian nên ông không thể đến Tòa án tham gia giải quyết việc ly hôn giữa ông và bà N. Vì vậy, ông Trần Thanh T có đơn xin vắng mặt tất cả các lần giải quyết vụ án tại Tòa án.

Trong quá trình giải quyết vụ án, do ông Trần Thanh T có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt nên Tòa án không tiến hành hòa giải được.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre tham gia phiên tòa: Về việc tuân theo pháp luật: Những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng tuân thủ đúng quy định pháp luật. Về nội dung: Đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lương Thị N.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào lời trình bày của nguyên đơn, căn cứ vào kết qủa tranh luận, căn cứ ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre tham gia phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Bà Lương Thị N có đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông Trần Thanh T hiện đang cư trú tại thành phố BT, tỉnh Bến Tre nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre theo quy định tại Điều 28, Điều 35, Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Ông Trần Thanh T là bị đơn có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt nên Tòa án không tiến hành hòa giải được và đưa vụ án ra xét xử vắng mặt ông Trần Thanh T theo quy định tại khoản 1 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

Về quan hệ hôn nhân: Bà Lương Thị N và ông Trần Thanh T kết hôn và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện G, tỉnh Bến Tre vào ngày 12/9/2008, hôn nhân do tự nguyện. Đây là hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận và bảo vệ. Trong quá trình hôn nhân, bà N cho rằng bà và ông T bất đồng quan điểm trong cuộc sống, ông T tham gia cờ bạc, đập phá nhà cửa, uy hiếp tính mạng bà và con bà, đòi đốt nhà. Ông T cũng có ý kiến trình bày rằng ông và bà N bất đồng quan điểm trong cuộc sống. Ông, bà cũng đã ly thân từ tháng 10 năm 2017 đến nay.

Ông, bà đã cố gắng hàn gắn nhưng không thành, hiện ông, bà không còn tình cảm với nhau nên xin ly hôn. Đồng thời, theo biên bản xác minh ngày 25/02/2019 tại Công an xã BP, thành phố BT, tỉnh Bến Tre thể hiện sự việc bà N đến Công an xã trình báo hành vi đập phá nhà cửa, đòi đốt nhà của ông T. Như vậy, mâu thuẫn giữa bà N và ông T là có thật và cả hai không tìm cách tháo gỡ được làm cho hôn nhân giữa hai bên lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên ly hôn là biện pháp tốt nhất cho cả hai.

Về con chung: Trong quá trình chung sống, bà N và ông T có một con chung tên Trần Tiến Th, sinh ngày 29/4/2009. Sau khi ly hôn, bà N yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung và không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung. Xét yêu cầu này của bà N là phù hợp với ý kiến của ông T, phù hợp với nguyện vọng của cháu Th và phù hợp với quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Về tài sản chung: Bà N và ông T tự thỏa thuận nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Về nợ chung: Bà N và ông T cùng khai không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[3] Về án phí: Án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng bà Lương Thị N phải nộp.

[4] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre tham gia phiên tòa phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 28, 35, 39, 147, 227, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Căn cứ các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ Nghị quyết số 326/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Lương Thị N, cụ thể tuyên:

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Lương Thị N được ly hôn với ông Trần Thanh T.

2. Về con chung: Bà Lương Thị N là người trực tiếp nuôi con chung tên Trần Tiến Th, sinh ngày 29/4/2009. Ghi nhận việc bà Lương Thị N không yêu cầu ông Trần Thanh T cấp dưỡng nuôi con chung.

Ông Trần Thanh T được quyền đến thăm chăm sóc và giáo dục con chung, không ai được quyền ngăn cản.

Vì lợi ích của con chung, khi cần thiết các bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con cũng như mức cấp dưỡng nuôi con

3. Về tài sản chung: Bà N và ông T tự thỏa thuận nên không xem xét giải quyết. 

4. Về nợ chung: Bà N và ông T cùng khai không có nên không xem xét giải quyết.

5. Về án phí: Án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng bà Lương Thị N phải nộp nhưng được khấu trừ theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0000992 ngày 15/02/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, bà Lương Thị N được quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử phúc thẩm. Đối với ông Trần Thanh T vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

173
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 04/2019/HNGĐ-ST ngày 14/03/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:04/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bến Tre - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về