Bản án 03/2021/HS-ST ngày 02/02/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĂN YÊN, TỈNH YÊN BÁI

BẢN ÁN 03/2021/HS-ST NGÀY 02/02/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 02 tháng 02 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 04/2020/TLST- HS ngày 08 tháng 01 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 03/2021/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 01 năm 2021 đối với bị cáo:

Mai Xuân T, sinh ngày 09 tháng 7 năm 1971 tại huyện V, tỉnh Yên Bái; nơi cư trú: Thôn C, xã Đ, huyện V, tỉnh Yên Bái; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Mai Xuân S và bà Vũ Thị T; vợ: Lù Thị L và có 02 người con lớn sinh năm 1993, nhỏ sinh năm 1995; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị bắt, tạm giữ ngày 30 tháng 9 năm 2020, tạm giam ngày 03 tháng 10 năm 2020, hiện tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái, có mặt.

- Người làm chứng: Anh Trịnh Ngọc D Trú tại: Thôn T, xã N, huyện V, tỉnh Yên Bái, vắng mặt.

- Người chứng kiến: Anh Triệu Quốc Q Trú tại: Thôn H, xã A, huyện V, tỉnh Yên Bái, vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 09 giờ 00 phút ngày 30 tháng 9 năm 2020, tại thôn H, xã A, huyện V, tỉnh Yên Bái, tổ công tác Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Yên Bái bắt quả tang Mai Xuân T về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ một vỏ kẹo có chữ “GOLBELL” bên trong có 03 gói giấy có nhiều chữ khác nhau, trong mỗi gói đều có chất bột nén màu trắng; 01 ví giả da; 7.500.000 đồng; 02 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO và nhãn hiệu FORME; 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA CPX và 01 giấy chứng minh nhân dân.

Cùng ngày, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Yên Bái tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở, đồ vật đối với Mai Xuân T tại thôn C, xã Đ, huyện V, tỉnh Yên Bái đã thu giữ tại phòng ngủ của bị cáo 6.500.000 đồng; 02 gói giấy màu trắng có nhiều chữ trong túi áo treo trên móc và 01 gói giấy có nhiều màu, có nhiều chữ và số trong túi áo da màu đen, bên trong mỗi gói đều có chất bột nén màu trắng.

Tại bản Kết luận giám định số 165/GĐMT, ngày 02/10/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Yên Bái kết luận:

1. Chất bột nén màu trắng thu giữ khi bắt quả tang Mai Xuân T có tổng khối lượng là 0,24 gam (không phẩy hai mươi bốn gam). 0,08 gam trích từ 0,24 gam chất bột nén màu trắng gửi giám định là ma túy; loại Heroine.

2. Chất bột nén màu trắng thu giữ khi khám xét nơi ở của Mai Xuân T:

- Trong 02 gói giấy màu trắng có nhiều chữ có tổng khối lượng là 0,29 gam (không phẩy hai mươi chín gam). 0,09 gam trích từ 0,29 gam chất bột nén màu trắng gửi giám định là ma túy; loại Heroine.

- Trong 01 gói giấy màu trắng có nhiều màu, nhiều chữ và số có khối lượng là 0,15 gam (không phẩy mười lăm gam). 0,09 gam trích từ 0,15 gam chất bột nén màu trắng gửi giám định là ma túy; loại Heroine.

Heroine nằm trong Danh mục I, STT: 9, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Tại bản Kết luận giám định số 250/KLGĐ, ngày 07/10/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Yên Bái kết luận:

Toàn bộ số tiền 14.000.000 đồng gửi giám định đều là tiền do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành.

Quá trình điều tra, bị cáo Mai Xuân T khai nhận: Bản thân là người nghiện ma túy, sáng ngày 30/92020 T đến Cơ sở điều trị Methadone đặt tại phòng khám đa khoa khu vực I thuộc thôn H, xã A, huyện V để uống thuốc, tại khu vực này T gặp và mua của một người đàn ông không quen biết 03 gói Heroine với giá 500.000 đồng với mục đích để sử dụng, khi T đang cầm ma túy trên tay thì bị tổ công tác Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Yên Bái phát hiện bắt quả tang. Ngoài ra, T còn cất giấu 03 gói Heroine tại chỗ ở của mình với mục đích để sử dụng. Số ma túy này T khai nhận đã mua của của một người đàn ông không biết tên tuổi địa chỉ tại xã B, huyện N, tỉnh Lào Cai.

Cáo trạng số: 02/CT-VKS-VY ngày 07 tháng 01 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái truy tố Mai Xuân T về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát luận tội đối với bị cáo vẫn giữ nguyên quyết định truy tố như cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Mai Xuân T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”;

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Mai Xuân T từ 01 (một) năm đến 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, không áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo;

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy còn lại là 0,44 gam (sau khi đã lấy mẫu giám định); trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, 01 điện thoại di động nhãn hiệu FORME, 01 ví giả da màu nâu và 01 chứng minh nhân dân.

- Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm Tại phiên tòa bị cáo Mai Xuân T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã khai nhận tại cơ quan điều tra; bị cáo không tranh luận, bào chữa gì.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo biết hành vi của bị cáo là sai, xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp để bị cáo được sớm trở về với gia đình và cộng đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Yên Bái, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Yên Bái, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Văn Yên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Yên, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà, phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, người chứng kiến, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản khám xét, vật chứng thu giữ của vụ án, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận: Bị cáo Mai Xuân T là người nghiện ma túy, buổi sáng ngày 30/9/2020 tại khu vực cổng Cơ sở điều trị Methamdone đặt tại phòng khám đa khoa khu vực I thuộc thôn H, xã A, huyện V, tỉnh Yên Bái, Mai Xuân T đã mua 03 gói Heroine có tổng khối lượng là 0,24 gam của một người đàn ông không quen biết nhằm mục đích để sử dụng cho bản thân, thì bị phát hiện bắt quả tang. Ngoài ra, Mai Xuân T còn cất giấu 03 gói Heroine có tổng khối lượng 0,44 gam tại chỗ ở nhằm mục đích để sử dụng. Tổng khối lượng Heroine Mai Xuân T tàng trữ nhằm mục đích để sử dụng cho bản thân là 0,68 gam. Hành vi nêu trên của bị cáo Mai Xuân T đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Yên truy tố đối với bị cáo là đúng người, đúng tội.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ xâm phạm đến chính sách của Nhà nước về quản lý, kiểm soát chất ma tuý mà còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự, an toàn xã hội, sức khoẻ của con người và còn là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác. Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ được hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý là vi phạm pháp luật, bị coi là tội phạm, nhưng do bản thân nghiện ma túy nên bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ: Tại phiên tòa cũng như tại cơ quan điều tra bị cáo đã thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Ngoài ra, bị cáo còn có bố, mẹ là người có công, bố bị cáo được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng ba, mẹ bị cáo được UBND tỉnh Yên Bái tặng Bằng khen đã có thành tích tham gia trong kháng chiến cống Mỹ cứu nước. Đây được coi là tình tiết giảm nhẹ khác theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, những tình tiết giảm nhẹ nêu trên được Hội đồng xét xử xem xét áp dụng cho bị cáo được hưởng, để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[5] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Thấy cần phải có hình phạt tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và phải cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian để giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người có ích cho xã hội cũng như việc răn đe phòng ngừa tội phạm nói chung.

[6] Bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về nguồn gốc ma túy, bị cáo khai nhận mua của những người đàn ông không quen biết. Do không xác định được lai lịch, địa chỉ của những người đã bán ma túy cho bị cáo nên không có căn cứ để xác minh, xử lý những người này.

[8] Về xử lý vật chứng và tài sản thu giữ:

Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA CPX cùng số tiền 7.500.000 thu giữ khi bắt bị cáo và số tiền 6.500.000 đồng thu giữ khi khám xét khẩn cấp chỗ ở, đồ vật đối với Mai Xuân T tại thôn C, xã Đ, huyện V, tỉnh Yên Bái. Qúa trình điều tra đã xác định được đây là tài sản hợp pháp của gia đình bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, nên cơ quan điều đã trả lại cho vợ bị cáo là chị Lù Thị L là phù hợp.

Đối với 02 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO và FORME, 01 ví giả da và 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Mai Xuân T thu giữ của bị cáo bắt quả tang. Quá trình điều tra đã xác định được là tài sản, giấy tờ hợp pháp của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo.

[9] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[10] Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố bị cáo Mai Xuân T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Mai Xuân T 01 (một) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ là ngày 30 tháng 9 năm 2020.

- Về xử lý vật chứng và tài sản thu giữ: Áp dụng khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và căn cứ vào điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

+ Trả cho bị cáo Mai Xuân T 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, 01 điện thoại di động nhãn hiệu FORME, 01 ví giả da và 01 giấy chứng minh nhân dân manh tên Mai Xuân T.

+ Tịch thu tiêu hủy: 0,44 (không phảy bốn mươi bốn) gam Heroine, được niêm phong trong 01 phong bì do Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Yên Bái phát hành.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng số 13 ngày 13/01/2021 giữa Công an huyện Văn Yên với Chi cục Thi hành án dân sự huyên Văn Yên).

- Về án phí: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Mai Xuân T phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

236
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2021/HS-ST ngày 02/02/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:03/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Văn Yên - Yên Bái
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về