Bản án 03/2020/HS-ST ngày 15/01/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VIỆT TRÌ - TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 03/2020/HS-ST NGÀY 15/01/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 15 tháng 01 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố VT, tỉnh PT, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 189/2019/HSST ngày 31/12/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2020/QĐXXST-HS ngày 03/01/2020 đối với bị cáo:

Lò Văn D, sinh ngày 02/6/2001; giới tính: Nam; nơi sinh: huyện ML, tỉnh SL; nơi cư trú: Bản PN, xã MB, huyện ML, tỉnh SL; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: La Ha; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 8/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông: Lò Văn H, sinh năm 1967; con bà: Lò Thị Đ, sinh năm 1972; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 16/10/2019 đến ngày 21/10/2019 bị khởi tố chuyển tạm giam. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh PT (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Hồi 19 giờ 00 phút ngày 16/10/2019 tại tổ 50, khu Minh Hà II, phường TC, thành phố VT, tỉnh PT, tổ công tác của Công an phường TC, thành phố VT, tỉnh PT phát hiện bắt quả tamg Lò Văn D, sinh năm 2001, trú tại Bản PN, xã MB, huyện ML, tỉnh SL có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy mục đích để sử dụng. Vật chứng thu giữ gồm: 01 gói giấy mặt ngoài màu vàng có chữ WHITE HORSE và in hình con vật, mặt trong màu trắng, bên trong gói giấy có chứa chất bột, cục màu trắng D khai là ma túy Heroine; số tiền 60.000đồng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO vỏ màu vàng (đã cũ) số imei 1: 863090032686559, số imei 2: 863090032686542 kèm 02 sim số 0325874063 và sim số 0364562032 trong máy.

Sau khi lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ và niêm phong vật chứng, Công an phường TC, thành phố VT đã bàn giao Lò Văn D cùng vật chứng thu giữ cho Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thành phố VT để giải quyết theo thẩm quyền.

Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố VT ra quyết định trưng cầu giám định chất bột cục màu trắng thu giữ của Lò Văn D. Tại bản kết luận giám định số 1239/KLGĐ ngày 21/10/2019 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh PT kết luận:

“Mẫu chất bột, cục màu trắng chứa trong gói giấy gửi giám định là ma túy; có khối lượng là: 0,142 gam, loại: Heroine”.

* Heroine là chất ma túy nằm trong Danh mục I, số thứ tự: 09, Nghị định số: 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Hoàn trả lại đối tượng giám định: 0,040 gam chất bột, cục màu trắng cùng toàn bộ bao gói gửi đến giám định được niêm phong, dán kín trong bì giấy có 05 hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh PT và chữ ký của các thành phần có liên quan tại mép dán.

Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ khi bắt quả tang Lò Văn D khai nhận: Lò Văn D đang làm thuê tại tổ 11, phố Hòa Bình 2, phường Bến Gót, thành phố VT, tỉnh PT. Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 16/10/2019 D đi nhờ xe của người không quen biết đến khu vực cổng chợ Trung tâm thuộc tổ 50, khu Minh Hà II, phường TC, thành phố VT, tỉnh PT để tìm mua ma túy Heroine. Tại đây, D gặp 01 nam thanh niên khoảng 30 tuổi, nhưng D không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể của người này; D hỏi mua ma túy là loại Heroine với giá là 200.000 đồng; nam thanh niên đó đồng ý và D đưa cho người này số tiền 200.000 đồng, người này đưa cho D 01 gói giấy mặt ngoài màu vàng có chữ WHITE HORSE và in hình con vật, mặt trong màu trắng. Sau đó, D cầm gói ma túy là loại Heroine đi tìm nơi để sử dụng; còn nam thanh niên bán ma túy cho D đi đâu D không biết. Khi D đi được một đoạn thì bị tổ công tác Công an phường TC kiểm tra. Quá trình kiểm tra, D đã tự giác khai báo và nộp cho tổ công tác gói ma túy là loại Heroine có đặc điểm như nêu trên.

Tại bản Cáo trạng số: 15/CT-VKSTPVT ngày 30 tháng 12 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố VT, tỉnh PT; truy tố bị cáo Lò Văn D về tội: "Tàng trữ trái phép chất ma tuý"; theo quy định tại Điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ vào: Điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố: Bị cáo Lò Văn D phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

Xử phạt: Bị cáo Lò Văn D từ 18 tháng tù đến 21 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 16/10/2019.

Về hình phạt bổ sung: Tịch thu nộp vào ngân sách Nhà nước số tiền 60.000 đồng và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO vỏ màu vàng đã cũ số imei 1: 863090032686559, số imei 2: 863090032686542.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào: Điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự;

Tịch thu tiêu hủy: 0,040 gam chất bột, cục màu trắng cùng toàn bộ bao gói gửi đến giám định trong 01 bì niêm phong số 1239/KLGĐ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh PT hoàn trả sau giám định và 02 sim số 0325874063, sim số 0364562032 trong điện thoại di động thu giữ của bị cáo.

Về án phí: Căn cứ vào: khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Buộc bị cáo Lò Văn D phải chịu 200.000 đồng, án phí hình sự sơ thẩm.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa những người tham gia tố tụng không có ý kiến gì khác về quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Bị cáo nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dụng vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Công an phường TC, Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thành phố VT, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố VT, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và vật chứng cũng như các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện như sau: Hồi 19 giờ 00 phút ngày 16/10/2019, tại tổ 50, khu Minh Hà II, phường TC, thành phố VT, tỉnh PT, Lò Văn D đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép 0,142 gam ma túy Heroine, nhằm mục đích để sử dụng thì bị Tổ công tác của Công an phường TC, thành phố VT, tỉnh PT phát hiện, bắt quả tang và thu giữ vật chứng.

Hành vi nêu trên của Lò Văn D đã phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” được quy định tại Điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự quy định:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

...

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.

[3] Xét, hành vi phạm tội của bị cáo thuộc loại tội phạm nghiêm trọng. Hành vi nêu trên của bị cáo không những đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về các chất ma túy mà còn gây mất trật tự trị an xã hội. Bị cáo nhận thức được tác hại của ma túy nhưng vẫn cố tình thực hiện. Do vậy, cần phải xử lý thật nghiêm minh trước pháp luật.

Tuy nhiên, trước khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử xem xét đến nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thấy rằng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, được quy định tại Điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Vì vậy, cần xử phạt bị cáo hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ để bị cáo từ bỏ được ma túy và cải tạo thành một người công dân tốt, có ích cho gia đình và xã hội.

Đối với nam thanh niên bán ma túy cho bị cáo Lò Văn D, do D không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể, việc mua bán ma túy chỉ có hai người nên Cơ quan điều tra không đủ căn cứ làm rõ là phù hợp.

[4] Về hình phạt bổ sung: Cơ quan điều tra đã xác minh bị cáo không có tài sản gì có giá trị ngoài số tiền 60.000 đồng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO đã thu giữ, nên cần áp dụng khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự; tịch thu nộp vào ngân sách Nhà nước số tiền 60.000 đồng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO đã thu giữ là phù hợp.

[5] Về xử lý vật chứng:

- Ma túy là vật Nhà nước cấm lưu hành, tàng trữ. Vì vậy, cần tịch thu tiêu hủy: 0,040 gam chất bột, cục màu trắng cùng toàn bộ bao gói gửi đến giám định trong 01 bì niêm phong số 1239/KLGĐ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh PT hoàn trả sau giám định là phù hợp.

- Đối với 02 sim điện thoại thu giữ của bị cáo không còn giá trị sử dụng. Vì vậy, cần tịch thu tiêu hủy 02 sim điện thoại, sim số 0325874063 và sim số 0364562032 là phù hợp pháp luật.

[6] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;

Tun bố: Bị cáo Lò Văn D phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Lò Văn D 18 (Mười tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 16/10/2019.

Về hình phạt bổ sung: Tịch thu nộp vào ngân sách Nhà nước số tiền 60.000 đồng (Sáu mươi nghìn đồng) và 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO vỏ màu vàng (đã cũ) số imei 1: 863090032686559, số imei 2: 863090032686542.

Về xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy: 0,040 gam chất bột, cục màu trắng cùng toàn bộ bao gói gửi đến giám định trong 01 bì niêm phong số 1239/KLGĐ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh PT hoàn trả sau giám định và 02 sim điện thoại sim số 0325874063, sim số 0364562032.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 30/12/2019 và Biên lai thu tiền số: AA/2018/0000343 ngày 31/12/2019).

Về án phí: Buộc bị cáo Lò Văn D phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh PT xét xử phúc thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

215
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2020/HS-ST ngày 15/01/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:03/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Việt Trì - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về