Bản án 03/2020/HSST ngày 11/02/2020 về tộI tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ Q, TỈNH QUẢNG NINH 

BẢN ÁN 03/2020/HSST NGÀY 11/02/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 11 tháng 02 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Q- Tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 03/2020/HS-ST ngày 10/01/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 03/2020/QĐXXST-HS ngày 31/01/2020 đối với bị cáo:

BÙI HUY T Tên gọi khác: Không. Sinh ngày 04/5/1984, tại thị xã Q, tỉnh Quảng Ninh. Nơi ĐKHKTT và nơi cư trú: Khu 2, phường Q, thị xã Q, tỉnh Quảng Ninh. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Không. Họ và tên bố: Bùi Huy V, sinh năm 1940; họ và tên mẹ: Lê Thị P, sinh năm 1952. Gia đình bị cáo có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất. Vợ: Chưa.

Tiền án:

+ Ngày 13/6/2008, bị Tòa án nhân dân huyện Y xử phạt 09 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”.

+ Ngày 31/12/2010, bị Tòa án nhân dân huyện Y xử phạt 24 tháng tù giam về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

+ Ngày 20/9/2013, bị Tòa án nhân dân thị xã Q xử phạt 30 tháng tù giam về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

+ Ngày 07/3/2018, bị Tòa án nhân dân thành phố U xử phạt 24 tháng tù giam về tội “Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có”. Ngày 29/8/2019, Bùi Huy T chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phương.

Tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt quả tang ngày 19/11/2019, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Ninh, có mặt tại phiên tòa.

Người chứng kiến: Ông Đặng Xuân M, sinh năm 1954.

Nơi ở: Khu 2, phường Q, thị xã Q, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt tại phiên tòa.

Ông Nguyễn Văn B, sinh năm 1973. Nơi ở: Khu 5, phường Q, thị xã Q, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Hồi 16 giờ 50 phút ngày 19/11/2019, tại khu 4 phường Q, thị xã Q, Công an thị xã Q kiểm tra, phát hiện, thu giữ tại túi quần phía trước bên trái của Bùi Huy T 03 túi nilon màu trắng, bên trong mỗi túi nilon đều chứa chất tinh thể màu trắng dạng cục, T khai là ma túy dạng đá để sử dụng cho bản thân. Công an thị xã Q đã niêm phong theo quy định pháp luật. Bản kết luận giám định số 872/GĐMT ngày 21/11/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh xác định: Mẫu vật thu giữ của Bùi Huy T gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có tổng khối lượng 0,501 gam.

Ti cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Q, Bùi Huy T khai nhận: T bắt đầu sử dụng ma túy từ cuối năm 2019, sử dụng không thường xuyên, loại ma túy sử dụng là ma túy đá, bằng hình thức hút khói thông qua bộ dụng cụ vào cơ thể. Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 19/11/2019, T đến nhà Nguyễn Văn H, sinh năm 1982, trú tại khu 6, phường Q, thị xã Q, để mua ma túy đá với số tiền 400.000 đồng, được 03 túi nilon màu trắng, khi đi về thì bị Công an thị xã Q bắt quả tang thu giữ vật chứng

Tại bản Cáo trạng số 04/CT - VKSQY ngày 08/01/2020 Viện kiểm sát nhân dân thị xã Q đã truy tố bị cáo về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát thị xã Q vẫn giữ quan điểm truy tố bị cáo theo nội dung Cáo trạng. Đề nghị Hội đồng xét xử xử áp dụng: Điểm o khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt: Từ 5 đến 6 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt 22/11/2019

Tịch thu tiêu hủy: 0,34 gam Methamphetamine hoàn lại sau giám định đựng trong 01 phong bì niêm phong số 872/GĐMT.

Tại phiên tòa, bị cáo Bùi Huy T khai nhận: Khoảng 15 giờ ngày 19/11/2019, bị cáo đến nhà Nguyễn Văn H ở khu 6 phường Q mua 400.000 đ ma túy 3 túi ma túy với mục đích để sử dụng. Trên đường đi về nhà thì bị Công an bắt quả tang, thu giữ 03 túi ma túy.

Bị cáo không tranh luận và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

* Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra công an thị xã Q, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Q, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó: Các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện hợp pháp, đúng quy định của pháp luật.

Về hành vi phạm tội:

[1]Trong quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy phù hợp với nội dung bản Cáo trạng. Thể hiện: Bị cáo Bùi Huy T bắt đầu sử dụng ma túy lại từ cuối năm 2019. Trước đó bị cáo cũng sử dụng nhưng khi đi tù về thì bị cáo sử dụng tiếp. Khoảng 15 giờ ngày 19/11/2019, bị cáo đến nhà Nguyễn Văn H ở khu 6 phường Q mua 400.000 đ ma túy 3 túi ma túy với mục đích để sử dụng. Trên đường đi về nhà thì bị Công an bắt quả tang, thu giữ 03 gói ma túy.

Người chứng kiến ông Đặng Xuân M, ông Nguyễn Văn B khai nhận: Khoảng 16 giờ 50 phút, ông Đặng Xuân M, ông Nguyễn Văn B được Công an mời tham gia chứng kiến việc kiểm tra bắt giữ Bùi Huy T ở khu 4 phường Q- Thị xã Q. Công an kiểm tra thu giữ của Bùi Huy T ở túi quần phía trước bên trái 03 túi ni- lon màu trắng được hàn kín, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng .

Tại Biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang lập hồi 17 giờ ngày 19/11/2019 thể hiện việc bắt giữ Bùi Huy T và thu giữ 03 túi ni-lon màu trắng được hàn kín, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng Như vậy lời khai người làm chứng trong quá trình điều tra phù hợp lời khai bị cáo tại phiên tòa, phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang; phù hợp với các chứng cứ khác trong vụ án. Từ những căn cứ nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy đủ cơ sở kết luận: Khoảng 16 giờ 50 phút ngày 19/11/2019, tại khu 4, phường Q, thị xã Q, tỉnh Quảng Ninh, Bùi Huy T có hành vi tàng trữ trái phép 0,501 gam chất ma túy, loại Methamphetamine, với mục đích sử dụng cho bản thân thì bị Công an thị xã Q bắt quả tang.

Hành vi nêu trên của bị cáo Bùi Huy T phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các T hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm” 2. Phạm tội thuộc một trong các T hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:

o) Tái phạm nguy hiểm

[2] Hành vi bị cáo gây nên là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước. Bị cáo mua trái phép chất ma túy đã tiếp tay cho những kẻ buôn ma túy, làm ảnh hưởng đến sức khỏe, kinh tế và làm gia tăng các loại tội phạm khác; ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự xã hội. Bị cáo nhận thức được việc vận chuyển, tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật song do coi thường pháp luật, bị cáo đã có hành vi mua 0,501 gam Methamphetamine về với mục đích sử dụng cho bản thân. Bản thân bị cáo Bùi Huy T đã 04 lần bị kết án chưa được xóa án tích nay lại thực hiện hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Do đó bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” với tình tiết tăng nặng định khung “ Tái phạm nguy hiểm” quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự. Cho nên việc đưa bị cáo ra xử lý trước pháp luật là cần thiết, đáp ứng yêu cầu phòng chống các tội phạm ma túy trong tình hình hiện nay. Vì vậy cần có mức hình phạt tù tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi bị cáo gây nên.

[3] Về tình tiết tăng nặng: Không.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi vi phạm. Bị cáo là quân nhân xuất ngũ, bố bị cáo được Nhà nước tặng Huân chương kháng chiến hạng nhì. Nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 và khoản 2 Điều 51Bộ luật hình sự. Vì vậy cần xem xét giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự để thấy được sự khoan hồng của pháp luật, sau trở thành công dân tốt cho xã hội.

[5] Về vật chứng trong vụ án: Lượng ma túy gửi giám định 0,34 gam Methamphetamine hoàn lại trong 01 phong bì niêm phong số 872/GĐMT cần tịch thu tiêu hủy.

[6] Vấn đề khác: Đối với đối tượng Nguyễn Văn H là người bán ma túy cho Bùi Huy T, hiện không có mặt tại địa phương, Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.

[7] Về hình phạt bổ sung (Phạt tiền): Xét bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có nghề nghiệp nên không áp dụng hình phạt bổ sung( Phạt tiền) đối với bị cáo.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và hình phạt:

TUYÊN BỐ: Bị cáo Bùi Huy T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

Áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt Bùi Huy T: 5 (Năm) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt 19/11/2019 2. Xử lý vật chứng:

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong số 872/GĐMT của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 13/01/2020 tại Chi cục thi hành án dân sự thị xã Q- Tỉnh Quảng Ninh.

3. Về án phí hình sự sơ thẩm, quyền kháng cáo:

Căn cứ khoản 1-2 Điều 135, khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội; Luật phí và lệ phí. Bị cáo Bùi Huy T phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Bùi Huy T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

212
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2020/HSST ngày 11/02/2020 về tộI tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:03/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Quảng Yên - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về