Bản án 03/2020/HNGĐ-ST ngày 26/03/2020 về ly hôn giữa chị A và anh T

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN V, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 03/2020/HNGĐ-ST NGÀY 26/03/2020 VỀ LY HÔN GIỮA CHỊ A VÀ ANH T

Ngày 23 tháng 3 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện V xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 118/2019/TLST - HNGĐ ngày 04-12-2019 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2020QĐXXST-HNGĐ ngày 25-02-2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Đỗ Thị A, sinh năm 1986.

ĐKHKTT tại: Thôn B, xã T, huyện V, tỉnh Nam Định.

Tạm trú: Thôn Đ, xã L, huyện V, tỉnh Nam Định.

2. Bị đơn: Anh Phạm Ngọc T, sinh năm 1986.

Trú tại: Thôn B, xã T, huyện V, tỉnh Nam Định.

Tại phiên tòa: Chị Đỗ Thị A có đơn xin xét xử vắng mặt; anh Phạm Ngọc T vắng mặt không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 03-12-2019, bản tự khai ngày 04-12-2019 và trong quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án, nguyên đơn chị Đỗ Thị A trình bày như sau:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Phạm Ngọc T tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện V, tỉnh Nam Định vào ngày 28-12-2011, được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục tại địa phương. Sau ngày cưới anh chị sống hạnh phúc được 02 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh T không tu chí làm ăn để chăm lo cho gia đình, Anh T đi làm xa nhưng không phụ giúp gì cho chị về kinh tế. Mặt khác anh T còn quan hệ bất chính với người phụ nữ khác, việc ngoại tình của anh T còn gây ra điều tiếng xấu tại địa phương. Chị và gia đình đã khuyên giải nhiều lần nhưng anh T vẫn không thay đổi dẫn đến hạnh phúc gia đình không còn. Tháng 11-2019 chị chuyển về nhà bố mẹ đẻ sinh sống và anh chị sống ly thân từ đó đến nay. Từ thời điểm sống ly thân chị và anh T không quan tâm đến cuộc sống của nhau nữa.

Chị A xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn gia đình đã trầm trọng, không thể tiếp tục kéo dài cuộc hôn nhân được nữa do đó chị A xin được ly hôn với anh T.

Về con chung: Chị và anh T có 01 con chung là cháu Phạm Ngọc Gia K - sinh ngày 29-8-2012. Từ thời điểm anh chị sống ly thân cháu K được chị Anh nuôi dưỡng, anh T không thăm nom cháu lần nào. Ly hôn chị có nguyện vọng được nuôi con.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con cùng chị vì chị có sức khỏe, có công việc và có thu nhập ổn định.

Về tài sản, công nợ và nội dung khác liên quan: Chị và anh T không có nên chị không đề nghị Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Phạm Ngọc T: Trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập anh T đến làm việc và tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh T đều vắng mặt không có lý do vì vậy Tòa án không tiến hành hòa giải được.

Tại biên bản xác minh, thu thập chứng cứ ngày 31-12-2019, Ủy ban nhân dân xã T, huyện V, tỉnh Nam Định cung cấp như sau: Hiện nay anh Phạm Ngọc T vẫn đăng ký hộ khẩu thường trú và đi về thôn B, xã T, huyện V, tỉnh Nam Định.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện V tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

- Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, của Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng.

- Về yêu cầu khởi kiện của đương sự: Căn cứ vào các Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án; Đề nghị Hội đồng xét xử:

+ Về quan hệ hôn nhân: Xử ly hôn giữa chị Đỗ Thị A và anh Phạm Ngọc T.

+ Về con chung: Giao cháu Phạm Ngọc Gia K - sinh ngày 29-8-2012 cho chị Đỗ Thị A trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con chung.

+ Về tài sản chung, tài sản riêng, công nợ và những vấn đề khác có liên quan: Đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.

+ Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Đỗ Thị A phải nộp theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Bị đơn là anh Phạm Ngọc T có đăng ký hộ khẩu thường trú tại thôn thôn B, xã T, huyện V, tỉnh Nam Định do đó Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Nam Định đã thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Nguyên đơn là chị Đỗ Thị A vắng mặt tại phiên tòa nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt; bị đơn là anh Phạm Ngọc T được Tòa án triệu tập hợp lệ lần 2 nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Do đó, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn theo quy định tại khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Đỗ Thị A và anh Phạm Ngọc T tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện V, tỉnh Nam Định vào ngày 28-12-2011. Như vậy hôn nhân của chị A và anh T là hợp pháp, được pháp luật bảo vệ theo quy định tại Điều 8, 9 Luật hôn nhân và gia đình.

Sau kết hôn vợ chồng chung sống hòa thuận được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn, theo chị A trình bày là do anh T không tu chí làm ăn để chăm lo kinh tế gia đình, ngoài ra còn quan hệ bất chính với người phụ nữ khác. Anh chị đã sống ly thân và chấm dứt quan hệ tình cảm vợ chồng từ tháng 11-2019 đến nay. Như vậy trong thời gian vợ chồng chung sống chị A và anh T không thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của vợ chồng, vợ chồng không thương yêu, tôn trọng nhau, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, không gìn giữ, bảo vệ hạnh phúc gia đình dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng, việc này trái với quy định tại Điều 19, 21 Luật hôn nhân gia đình năm 2014. Hội đồng xét xử xác định tình trạng hôn nhân gia đình của chị A và anh T đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị A, xử cho chị A được ly hôn với anh T là phù hợp với quy định tại Điều 51, Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3] Về con chung: Chị Đỗ Thị A và anh Phạm Ngọc T có 01 con chung là cháu Phạm Ngọc Gia K - sinh ngày 29-8-2012, hiện nay cháu K đang sinh sống ổn định cùng chị A. Ly hôn, chị A có nguyện vọng được nuôi dưỡng cháu K, không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị. Hội đồng xét xử xét thấy chị A có sức khỏe, có công việc và có thu nhập ổn định vì vậy đảm bảo đủ điều kiện để chăm lo cho cuộc sống cho cháu K, do đó Hội đồng xét xử giao cháu K cho chị A nuôi dưỡng, chăm sóc, và giáo dục là phù hợp với quy định tại Điều 58; Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Đỗ Thị A không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4] Về tài sản, công nợ và các vấn đề khác liên quan: Các đương sự không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị A phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51; Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án:

1. Xử ly hôn giữa chị Đỗ Thị A và anh Phạm Ngọc T.

2. Về con chung: Giao cháu Phạm Ngọc Gia K - sinh ngày 29-8-2012 (hiện nay cháu K đang sinh sống cùng chị A) cho chị Đỗ Thị A trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục đến khi cháu K trưởng thành, có khả năng lao động tự lập được.

Anh Phạm Ngọc T không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị Đỗ Thị A.

Anh Phạm Ngọc T có quyền, nghĩa vụ thăm non con mà không ai được cản trở, nhưng anh T không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con của chị Đỗ Thị A.

3. Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Đỗ Thị A phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng). Chị A đã nộp tạm ứng án phí 300.000đ theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2016/0001871ngày 04-12-2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện V được đối trừ.

Chị Đỗ Thị A và anh Phạm Ngọc T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì đương sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

253
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2020/HNGĐ-ST ngày 26/03/2020 về ly hôn giữa chị A và anh T

Số hiệu:03/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vụ Bản - Nam Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/03/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về