Bản án 52/2019/HNGĐ-ST ngày 26/02/2019 về ly hôn giữa chị T và anh C

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 52/2019/HNGĐ-ST NGÀY 26/02/2019 VỀ LY HÔN GIỮA CHỊ T VÀ ANH C

Ngày 26 tháng 02 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 287/2018/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 10 năm 2018 về “Ly hôn” theo Quyết định Đưa vụ án ra xét xử số 01/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 02 tháng 01 năm 2019 và Quyết định Hoãn phiên tòa số 03/2019/QĐST-HNGĐ ngày 29 tháng 01 năm 2019 giữa các đương sự:

1.Nguyên đơn: Chị T T T T, sinh ngày 21-11-1993 (vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt ngày 29-01-2019)

Cư trú: Tổ 14, ấp L A, xã L K, huyện C M, tỉnh An Giang.

2.Bị đơn: Anh L V C, sinh năm 1990 (vắng mặt)

Nơi cư trú: Tổ 24, ấp V T, xã V A, huyện C T, tỉnh An Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện xin ly hôn, tờ tự khai ngày 04-9-2018, nguyên đơn chị T T T T trình bày:

+Về hôn nhân: Chị và anh L V C kết hôn vào năm 2010, hôn nhân do quen biết, có tổ chức đám cưới. Có đăng ký kết hôn tại UBND xã V A, huyện C T, tỉnh An Giang số 128/2012 Quyển số 01/2012 ngày 19-12-2012. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống bên chồng. Vài tháng sau vợ chồng lên tỉnh Bình Dương làm công nhân sinh sống. Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc khoảng 2 năm thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng trong cuộc sống, anh C sinh ra ăn chơi, cờ bạc, không quan tâm gia đình. Từ đó dẫn đến vợ chồng luôn bất hòa, gia đình không êm ấm, không hạnh phúc. Từ tháng 08/2017, chị và anh C sống ly thân cho đến nay. Nay chị xin ly hôn anh L V C.

+Về con chung: Có 01 con chung tên L T K A, sinh ngày 14-01-2013 hiện chị đang nuôi dưỡng. Nếu ly hôn chị yêu cầu được tiếp tục nuôi con.

+Về cấp dưỡng nuôi con: Chị không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con.

+Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Sau khi thụ lý vụ án Tòa án đã tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án và 2 lần thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cho anh L V C, nhưng anh C vẫn không gửi văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không cung cấp chứng cứ, không tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Ngày 06-12-2018, Tòa án đến nhà để ghi lời khai anh C nhưng anh C vắng mặt tại nhà.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 06-12-2018, ông L V S trình bày: Ông là cha ruột của L V C. C hiện đang đi làm hồ tại Phú Quốc khoảng 7 tháng nay. Ông có nhận được các thông báo của Tòa án và gửi các thông báo đó cho C. Sau khi cưới C – T sống bên chồng được vài tháng thì vợ chồng lên Bình Dương sinh sống. C – T không sống chung với ông nên ông không rõ nguyên nhân mâu thuẫn. C – T không sống chung với nhau hơn năm nay, mỗi đứa sống một nơi nên khó có khả năng đoàn tụ. C – T có một con chung hiện T đang nuôi con.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh An Giang phát biểu quan điểm như sau:

1/Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án đã thực hiện đầy đủ trình tự thủ tục tố tụng được pháp luật quy định tại Bộ Luật Tố tụng Dân sự.

2/Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng:

Đối với nguyên đơn chị T T T T, Tòa án đã tống đạt hợp lệ Quyết định hoãn phiên tòa, nguyên đơn chị T có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ Điều 228 của Bộ Luật Tố tụng Dân sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt theo thủ tục chung đối với nguyên đơn chị T.

Đối với bị đơn anh L V C, Tòa án đã tống đạt hợp lệ Quyết định Đưa vụ án ra xét xử, Quyết định Hoãn phiên tòa nhưng anh C vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ Điều 227 và Điều 228 của Bộ Luật Tố tụng Dân sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt theo thủ tục chung đối với bị đơn anh C.

[2] Về hôn nhân: Chị T T T T và anh L V C kết hôn vào năm 2010, hôn nhân do quen biết, có tổ chức đám cưới. Có đăng ký kết hôn tại UBND xã V A, huyện C T, tỉnh An Giang ngày 19-12-2012 theo quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, nên hôn nhân này là hợp pháp và được pháp luật bảo vệ. Chị T có yêu cầu ly hôn. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án tổ chức hòa giải để hàn gắn lại tình cảm giữa chị T và anh C nhưng anh C không tham gia hòa giải. Từ khi sống ly thân cả hai đều bỏ mặc không tìm cách hàn gắn lại tình cảm. Ông L V S là cha ruột của anh C cho rằng anh C và chị T khó có khả năng đoàn tụ. Điều này cho thấy đời sống hôn nhân đã thật sự trầm trọng, khả năng đoàn tụ không còn. Đối chiếu với quy định của pháp luật tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Hội đồng xét xử xét thấy nên chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn là chị T được ly hôn với anh C là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.

[3] Về con chung: Chị T T T T và anh L V C có 01 con chung. Chị T có yêu cầu nuôi con, anh C không có ý kiến.

Xét thấy: Cháu K A từ nhỏ đã quen sống với gia đình chị T. Từ sau khi sống ly thân cho đến nay chị T nuôi dưỡng và chăm sóc cháu chu đáo, cháu được đi học đàng hoàng. Đối chiếu với quy định của pháp luật tại khoản 3 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Vì vậy, để không làm thay đổi cuộc sống cũng như sự phát triển tâm sinh lý của cháu; Hội đồng xét xử xét thấy nên để cho chị T được tiếp tục nuôi dưỡng con chung là phù hợp.

Chị T T T T và các thành viên trong gia đình chị T không được cản trở anh L V C trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con theo quy định tại khoản 2 Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Anh L V C lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì chị T có quyền yêu cầu Toà án hạn chế quyền thăm nom con của anh C theo quy định tại khoản 3 Điều 82 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[4] Về cấp dưỡng nuôi con: Chị T T T T không yêu cầu anh L V C cấp dưỡng nuôi con. Anh C không có ý kiến. Do đó, Hội đồng xét xử xem xét.

[5] Về tài sản chung, nợ chung: Chị T T T T trình bày không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Anh L V C không có ý kiến. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Đối chiếu với quy định của pháp luật tại khoản 4 Điều 147 của Bộ Luật Tố tụng Dân sự; Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30-12-2016, của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội khóa XIV Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, Nguyên đơn chị T T T T phải chịu 300.000đ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào 300.000đ tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0008669 ngày 02-10-2018 của Chi Cục Thi hành án Dân sự huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.

[7] Về quyền kháng cáo: Đối chiếu với quy định của pháp luật tại Điều 271 và Điều 273 của Bộ Luật Tố tụng Dân sự; Nguyên đơn chị T T T T; bị đơn anh L V C vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

Khoản 1 Điều 28; Điểm a khoản 1 Điều 35; Điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; Các Điều 227, 228, 266, 271 và 273 của Bộ Luật Tố tụng Dân sự;

Các Điều 9, 56, 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30-12-2016, của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội khóa XIV Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, Xử:

[1] Về hôn nhân: Chị T T T T được ly hôn với anh L V C.

[2] Về con chung: Chị T T T T được tiếp tục nuôi dưỡng con chung tên L T K A, sinh ngày 14-01-2013.

Chị T T T T và các thành viên trong gia đình chị T không được cản trở anh L V C trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con theo quy định tại khoản 2 Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Anh L V C lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì chị T có quyền yêu cầu Toà án hạn chế quyền thăm nom con của anh C theo quy định tại khoản 3 Điều 82 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3] Về án phí: Nguyên đơn chị T T T T phải chịu 300.000đ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào 300.000đ tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0008669 ngày 02-10-2018 của Chi Cục Thi hành án Dân sự huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.

[4] Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn chị T T T T; bị đơn anh L V C vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

288
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 52/2019/HNGĐ-ST ngày 26/02/2019 về ly hôn giữa chị T và anh C

Số hiệu:52/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về