Bản án 03/2019/HS-ST ngày 29/01/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẮC QUANG, TỈNH HÀ GIANG

BẢN ÁN 03/2019/HS-ST NGÀY 29/01/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 01 năm 2019, tại Tòa án nhân dân huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 03/2018/TLST-HS ngày 28 tháng 12 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2019/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 01 năm 2019 đối với bị cáo:

Hoàng Việt T, sinh ngày 18 tháng 9 năm 1999 tại huyện B, tỉnh Hà Giang. Nơi cư trú: Tổ 12, thị trấn Y, huyện L, tỉnh Yên Bái; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: Lớp 5/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Văn H và bà Thân Thị Thu H; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị bắt giữ từ ngày 16/10/2018. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Giang. (Có mặt)

- Bị hại: bà Nguyễn Thị Th, sinh năm: 1964; nơi cư trú: thôn V, xã V, huyện B, tỉnh Hà Giang. (Có mặt).

- Người làm chứng:

1 - Anh Hà Văn Tr, sinh năm 1996; Nơi cư trú: Thôn V, xã V, huyện B, tỉnh Hà Giang; (Có mặt)

2 - Anh Dương Việt H, sinh năm 1999; Nơi cư trú: Thôn V, xã V, huyện B, tỉnh Hà Giang. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có Tr hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 07 giờ ngày 02 tháng 5 năm 2017, Công an xã V, huyện B, tỉnh Hà Giang nhận được đơn trình báo của chị Nguyễn Thị Th về việc bị kẻ gian trộm cắp chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, số loại NVX, màu sơn, đen, bạc BKS- 23D1- 267.35 dựng ở trước sân nhà.

Sau khi nhận được tin báo Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Quang, phối hợp với Công an xã V xác minh thì phát hiện đối tượng Hoàng Việt T sau đó Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Quang đã mời T đến để làm việc. Tại cơ quan điều tra T khai nhận đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản chiếc xe mô tô của Chị Nguyễn Thị Th, T đã tự giao nộp chiếc xe mô tô T đã trộm cắp được cho cơ quan điều tra.

Quá trình điều tra xác định được: Hoàng Việt T do có quen biết từ trước với Hà Văn Tr (là con trai của bà Nguyễn Thị Th) nên vào ngày 01/5/2017, sau khi T đi chơi điện tử ở quán anh Hoàng Văn Chương sinh năm 1972 tại thôn V, xã V đến khoảng 00 giờ ngày 02/5/2017 T đi nhờ anh Dương Việt H về nhà Tr để ngủ, Hoàng điều khiển xe mô tô của Hoàng đưa T về đến nhà Tr, sau đó Hoàng quay về nhà ngủ. T đi vào nhà thì thấy nhà Tr đã đi ngủ hết và cửa đóng T không gọi ai dậy mà lúc đó T đã dùng tay phải thò vào bên trong cửa kéo then chốt cửa ra (cửa không khóa) đi vào trong nhà và leo lên giường của Tr để ngủ thì T nhìn thấy một chùm chìa khóa để ở trên đầu giường. T nằm được khoảng 5 phút thì nảy sinh ý định trộm cắp tài sản xe mô tô để bán lấy tiền tiêu sài cá nhân. T cầm chìa khóa đi ra chỗ chiếc xe mô tô mở ổ khóa điện. T sợ bị Tr và người nhà của Tr phát hiện nên T dắt xe mô tô ra ngoài cổng sau đó nổ máy điều khiển đi ra từ xã V ra thị trấn V1 đi theo đường Quốc lộ II xuống tỉnh Tuyên Quang để tìm nơi tiêu thụ. Trong lúc đang tìm chỗ tiêu thụ chiếc xe mô tô thì T bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Quang mời lên làm việc. T đã khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp chiếc xe mô tô của bà Nguyễn Thị Th vào rạng sáng ngày 02/5/2017 tại xã Vĩnh Phúc, huyện Bắc Quang và giao nộp chiếc xe mô tô cho Cơ quan CSĐT Công an huyện Bắc Quang.

Tại bản kết luận ngày 05/5/2018 của Hôi đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Bắc Quang, kết luận: 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA; BKS: 23D1-267.35; số loại: NVX; màu sơn: Đen, bạc (xe được dán giấy đề can màu vàng cam ngoài vỏ xe); số khung: 4510HY005558; số máy: G3H9E005565; xe được mua mới từ tháng 12/2016 với giá trị là: 48.500.000đ (bốn mươi tám triệu năm trăm nhìn đồng); đến thời điểm hiện tại xe cũ, đã qua sử dụng, không xác định tình trạng bên Tr của xe, có giá 37.000.000 đồng (ba mươi bảy triệu đồng).

Với hành vi trên, tại Cáo trạng số 03/CT-VKSBQ ngày 28/12/2018 Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang đã truy tố Hoàng Việt T về tội "Trộm cắp tài sản" quy định tại khoản 1 Điều 138 của Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009.

Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu.

Trên cơ sở phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang vẫn giữ nguyên quyết định truy tố Hoàng Việt T về tội “Trộm cắp tài sản” và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng khoản 1 Điều 138, điểm i và điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 91, Điều 98, khoản 1 Điều 101 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017, đề nghị xử phạt bị cáo Hoàng Việt T từ 9 đến 12 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt giữ.

Người bị hại không có ý kiến gì về tội danh và hình phạt đối với bị cáo, đề nghị xử phạt bị cáo theo quy định của pháp luật. Về trách nhiệm dân sự: bị hại đã nhận lại được tài sản và không yêu cầu bị cáo phải bồi thường dân sự.

Tại phiên tòa, bị cáo nhất trí với tội danh và mức hình phạt mà Kiểm sát viên đã đề nghị Tr bản luận tội.

Bị cáo lời nói sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất để bị cáo có cơ hội sửa chưa nhưng lôi lầm đa mắc phai.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã đượctranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng  xét xử nhận định như sau:

 [1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Viện kiểm sát, Điều tra viên, Kiểm sát viên của huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục của Bộ luật Tố tụng hình sự quy định. Giai đoạn điều tra cũng như tại phiên toà những người tham gia tố tụng trong vụ án không có ý kiến, khiếu nại gì về hành vi, quyết định của các cơ quan, người tiến hành tố tụng. Do đó các chứng cứ, tài liệu đã thu thập có trong hồ sơ vụ án là hợp pháp.

Về sự vắng mặt của những người tham gia tố tụng: tại phiên tòa người làmchứng Dương Việt H vắng mặt.  Căn cứ vào Điều 293 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, xét thấy sự vắng mặt của người làm chứng không gây trở ngại cho việc giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử quyết định vẫn tiến hành xét xử.

 [2] Về căn cứ định tội, định khung hình phạt:

Lời khai nhận tội của bị cáo Hoàng Việt T tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại giai đoạn điều tra, vật chứng của vụ án, biên bản sự việc, lời khai của những người làm chứng, biên bản định giá tài sản và Bản kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá tài sản huyện Bắc Quang ngày 05/5/2017 và các tài liệu chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án, do đó đã có đủ căn cứ để kết luận bị cáo Hoàng Việt T phạm tội "Trộm cắp tài sản" theo quy định tại khoản 1 Điều 138 của Bộ luật hình sự, có nội dung quy định như sau:

"1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm".

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến quyền sở hữu đối với tài sản của người khác mà còn làm mất trật tự trị an tại địa phương, gây lo lắng cho quần chúng nhân dân trong việc quản lý tài sản. Trị giá tài sản bị cáo đã trộm cắp theo biên bản định giá và kết luận của Hội đồng định giá tài sản huyện Bắc Quang là 37.000.000 đồng (ba mươi bảy triệu đồng) nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định khoản 1 Điều 138 của Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 như Viện kiểm sát huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang đã truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

 [3] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo trong vụ án này, Hội đồng xét xử thấy rằng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm i và đoạn 1 điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015. Mặt khác, tại phiên tòa ngày hôm nay bị cáo đã đủ 18 tuổi, tuy nhiên tại thời điểm bị cáo thực hiện hành vi phạm tội thì bị cáo mới 17 tuổi 07 tháng 14 ngày, đang ở độ tuổi là người chưa thành niên nên về thể chất cũng như tâm sinh lý chưa phát triển đầy đủ, trình độ nhận thức và kinh nghiệm sống vẫn còn bị hạn chế, do đó cần áp dụng Điều 91 Bộ luật hình sự năm 2015 về nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nhằm giáo dục, giúp đỡ bị cáo sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội. Tuy nhiên trước khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của bà Nguyễn Thị Th bị cáo đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản vào ngày 03/10/2016 tại xã Th, huyện V, tỉnh Hà Giang do đó hiện bị cáo đang bị truy tố, xét xử trong vụ án khác. Ngoài ra, trong quá trình điều tra vụ án, bị cáo đã bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã. Điều đó cho thấy bị cáo tuổi đời còn trẻ nhưng không chịu tu dưỡng, rèn luyện mà có lối sống coi thường kỷ cương của xã hội, pháp luật của Nhà nước.

Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử thấy cần áp dụng Điều 101 Bộ luật hình sự năm 2015 cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định, như vậy mới có tác dụng giáo dục bị cáo nói riêng và đấu tranh phòng ngừa chung.

 [4] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại Nguyễn Thị Th đã nhận lại được tài sản bị mất là chiếc xe mô tô và không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

 [5] Về xử lý vật chứng: Đối với vật chứng là chiếc xe mô tô đã thu giữ, quá trình điều tra Cơ quan Công an huyện Bắc Quang đã ra quyết định xử lý vật chứng và lập biên bản trả lại cho chủ sở hữu là đúng quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử không xem xét thêm.

 [6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định cua phap luât.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009; điểm i và đoạn 1 điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 91, khoản 1 Điều 101 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017; khoản 2 Điều 136; Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Hoàng Việt T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Hoàng Việt T 09 (Chín) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt giữ (ngày 16/10/2018).

3. Về án phí: Bị cáo Hoàng Việt T phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người bị hại có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm Tr thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

196
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2019/HS-ST ngày 29/01/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:03/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bắc Quang - Hà Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về