Bản án 03/2019/HS-ST ngày 22/01/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG PẮC, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 03/2019/HS-ST NGÀY 22/01/2019  VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 01 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Krông Pắc - tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 02/2019/HSST ngày 07 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2019/QĐXXST- HS ngày 10 tháng 01 năm 2019, đối với bị cáo:

Họ và tên: Hồ Quang D (tên gọi khác: Đ), sinh năm 1993. Tại: tỉnh Đắk Lắk; Nơi cư trú: 24/11 đường H, phường T, Tp. B, tỉnh Đắk Lắk; Tạm trú tại: Tổ dân phố 2, thị trấn P, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Hồ Quang T1, sinh năm 1973 và con bà Hoàng Thị Bích H1, sinh năm 1976 (đã chết); Bị cáo chưa có vợ con; tiền án: không; tiền sự: Không;

Nhân thân: Tại bản án hình sự sơ thẩm số 16/2015/HSST ngày 19 tháng 01 năm 2015 bị Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 18 tháng 9 năm 2016. Đã được xóa án tích.

Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 26 tháng 10 năm 2018. Hiện đang tạm giam - Có mặt.

- Bị hại: Ông Trần Ngọc Q, sinh năm: 1953. Nơi cư trú: Tổ dân phố 8, thị trấn P, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. - Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Viết K1, sinh năm:1974. Nơi cư trú: Thôn A, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. - Có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ ngày 17 tháng 10 năm 2018, Hồ Quang D trú tại số 24/11 đường H, phường T, Tp. B nảy sinh ý định trộm cắp tài sản để bán lấy tiền, nên điều khiển xe mô tô biển số 76S7-0613 đi tìm nhà nào sơ hở để trộm cắp tài sản. Khi đi đến khu vực ngã tư giao nhau giữa đường L và đường Q2, thuộc tổ dân phố 6, thị trấn P, huyện K thì thấy trên vỉa hè có 01 máy nén khí (máy bơm hơi) nhãn hiệu Min Bao, màu xanh của ông Trần Ngọc Q trú tại tổ dân phố 8, thị trấn P, huyện K (dụng cụ sửa xe của ông Q) không có người trông coi. D điều khiển xe mô tô lên vỉa hè rồi bê máy nén khí bỏ lên xe chở đi tìm nơi tiêu thụ. Khi đến khu vực thôn A, xã E, huyện K thì thấy xưởng mộc của anh Nguyễn Viết K1 nên D vào bán máy nén khí cho anh K1 với giá 800.000 đồng.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 76/KL-HĐĐG ngày 26/10/2018 của hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện K kết luận: 01 máy nén khí, mã hiệu Min Bao, gồm bình hơi và máy nén, có giá trị 2.100.000 đồng. Tổng giá trị tài sản được định giá tại thời điểm bị xâm hại ngày 17/10/2018 là 2.100.000 đồng.

Quá trình điều tra xác định anh Nguyễn Viết K1 không biết máy nén khí, nhãn hiệu Min Bao, màu xanh là do trộm cắp mà có.

Quá trình điều tra Hồ Quang D khai nhận xe mô tô 76S7-0613 D mua của một người đàn ông tên T2 (không rõ nhân thân lai lịch) ở thành phố B với giá 1.600.000 đồng, khi mua xe không có giấy tờ và không rõ nguồn gốc. Sau khi sử dụng xe mô tô đi trộm cắp tài sản vào ngày 17/10/2018, thì D đã bán xe cho một người đàn ông (không rõ lai lịch) ở khu vực xã E, huyện K với giá 1.200.000 đồng.

Vật chứng thu giữ, xử lý: 01 máy nén khí, nhãn hiệu Min Bao, màu xanh, Cơ quan điều tra đã trả cho ông Trần Ngọc Q là chủ sở hữu.

Tại Bản cáo trạng số 09/CT-VKS-HS ngày 04 tháng 01 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Pắc đã truy tố bị cáo Hồ Quang D về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Hồ Quang D đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng với lời khai của bị cáo đã khai tại cơ quan điều tra, nội dung bản cáo trạng mà Viện kiểm sát công bố tại phiên tòa và thừa nhận Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Pắc truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” là đúng và không oan.

Tại phiên tòa, bị hại ông Trần Ngọc Q nhất trí như lời khai của bị cáo về tài sản của ông mà bị cáo Hồ Quang D đã lấy. Tài sản bị mất ông đã được Công an huyện Krông Pắc trao trả nên ông không yêu cầu bị cáo phải bồi thường. Về hình phạt áp dụng đối với bị cáo thì đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo mức án nhẹ.

Quá trình tranh luận, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Pắc tham gia phiên tòa đã đưa ra chứng cứ buộc tội và đã đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi phạm tội do bị cáo gây ra và vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Hồ Quang D tại Bản cáo trạng số 09/CT-VKS-HS, ngày 04 tháng 01 năm 2019. Đồng thời đưa ra các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Hồ Quang D và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Hồ Quang D phạm tội“Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Hồ Quang D mức án từ 06 (Sáu) tháng 09 (Chín) tháng tù.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Chấp nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Krông Pắc đã trao trả 01 máy nén khí, nhãn hiệu Min Bao, màu xanh cho ông Trần Ngọc Q là chủ sở hữu (Có đặc điểm như biên bản về việc trả lại đồ vật, tài liệu ngày 04/12/2018 tại Công an huyện Krông Pắc).

- Về trách nhiệm dân sự: Ông Trần Ngọc Q không yêu cầu bị cáo Hồ Quang D phải bồi thường nên không đề cập xử lý.

Anh Nguyễn Viết K1 không yêu cầu bị cáo Hồ Quang D phải hoàn trả 800.000 đồng nên không đề cập xử lý.

Đối với anh Nguyễn Viết K1 không biết máy nén khí, nhãn hiệu Min Bao, màu xanh là do trộm cắp mà có nên không xử lý hình sự đối với anh K1 là phù hợp.

Đối với xe mô tô 76S7-0613: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Krông Pắc chưa làm rõ được nguồn gốc và chưa thu giữ được xe, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Krông Pắc tiếp tục truy tìm và thu giữ để xử lý theo quy định của pháp luật là phù hợp.

Tại phiên tòa, bị cáo không bào chữa tranh luận gì với quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét xử phạt bị cáo mức án nhẹ nhất.

Người bị hại không tranh luận gì chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét xử phạt bị cáo mức án nhẹ.

Khi nói lời sau cùng bị cáo Hồ Quang D xin Hội đồng xét xử xem xét xử phạt bị cáo mức án nhẹ nhất để bị cáo được sớm trở về đoàn tụ cùng với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Krông Pắc, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Pắc, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của Hồ Quang D tại phiên toà là phù hợp với lời khai của bị cáo đã khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại và phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở để kết luận:

Do ý thức coi thường pháp luật, vì động cơ tư lợi cá nhân muốn có tiền tiêu xài nhưng lười lao động và lợi dụng sự sơ hở mất cảnh giác của người bị hại trong việc quản lý tài sản nên vào khoảng 11 giờ ngày 17/10/2018, tại vỉa hè ở khu vực ngã tư giao nhau giữa đường L và đường Q2 thuộc tổ dân phố 6, thị trấn P, huyện K. Hồ Quang D đã có hành vi lén lút trộm cắp 01 máy nén khí (máy bơm hơi) nhãn hiệu Min Bao, màu xanh của ông Trần Ngọc Q, tài sản có trị giá là 2.100.000 đồng. Hành vi của Hồ Quang D đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Tại Điều 173 Bộ luật hình sự quy định:

1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

[3] Xét tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bởi lẽ, hành vi của bị cáo đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của người bị hại ông Trần Ngọc Q. Ngoài ra hành vi của bị cáo còn gây hoang mang lo lắng trong quần chúng nhân dân, làm mất trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần xử lý bị cáo mức hình phạt nghiêm thì mới có đủ tác dụng giáo dục đối với bị cáo và răn đe phòng ngừa chung trong toàn xã hội.

[4] Xét về ý thức: Bị cáo là người có đầy đủ khả năng nhận thức và biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật, biết được mọi hành vi xâm hại trái phép đến tài sản của người khác sẽ bị pháp luật trừng trị. Song do ý thức coi thường pháp luật, vì động cơ tư lợi cá nhân muốn có tiền tiêu xài, lười lao động và lợi dụng sự sơ hở mất cảnh giác của người bị hại trong việc quản lý tài sản nên đã có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của ông Trần Ngọc Q là 01 máy nén khí, mã hiệu Min Bao (gồm bình hơi và máy nén), có trị giá là 2.100.000 đồng.

[5] Tình tiết tăng nặng: Không có. Tuy nhiên, xét thấy bị cáo có nhân thân xấu: Tại bản án hình sự sơ thẩm số 16/2015/HSST ngày 19 tháng 01 năm 2015 bị Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột xử phạt bị cáo 02 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 18 tháng 9 năm 2016, đã được xóa án tích.

[6] Tình tiết giảm nhẹ: Hội đồng xét xử xét thấy: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cãi về hành vi phạm tội của mình, phạm tội gây thiệt hại không lớn. Do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự nên Hội đồng xét xử cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt nhằm thể hiện chính sách khoan hồng, nhân đạo của pháp luật nhà nước ta.

[7] Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Chấp nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Krông Pắc đã trao trả 01 máy nén khí, nhãn hiệu Min Bao, màu xanh cho ông Trần Ngọc Q là chủ sở hữu (Có đặc điểm như biên bản về việc trả lại đồ vật, tài liệu ngày 04/12/2018 tại Công an huyện Krông Pắc).

[8] Về trách nhiệm dân sự:

- Người bị hại ông Trần Ngọc Q không yêu cầu bị cáo Hồ Quang D phải bồi thường nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết;

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Viết K1 không yêu cầu bị cáo Hồ Quang D phải hoàn trả số tiền 800.000 đồng nên Hội đồng xét xử không đề cập để giải quyết.

Đối với anh Nguyễn Viết K1 không biết máy nén khí, nhãn hiệu Min Bao, màu xanh là do trộm cắp mà có nên không xử lý hình sự đối với anh K1 là phù hợp.

Đối với xe mô tô 76S7-0613: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Krông Pắc chưa làm rõ được nguồn gốc và chưa thu giữ được xe, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Krông Pắc tiếp tục truy tìm và thu giữ để xử lý theo quy định của pháp luật là phù hợp.

[9] Xét thấy việc truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Pắc đối với bị cáo là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, mức đề xuất hình phạt, xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận ý kiến, quan điểm của Viện kiểm sát.

[10] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135; Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Hồ Quang D (tên gọi khác: Đ), phạm tội “Trộm cắp tài sn.

2. Điều luật và mức hình phạt: Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Hồ Quang D (tên gọi khác: Đ) 07 (Bảy) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam, ngày 26 tháng 10 năm 2018.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Chấp nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Krông Pắc đã trao trả 01 máy nén khí, nhãn hiệu Min Bao, màu xanh cho ông Trần Ngọc Q là chủ sở hữu (Có đặc điểm như biên bản về việc trả lại đồ vật, tài liệu ngày 04/12/2018 tại Công an huyện Krông Pắc).

4. Về trách nhiệm dân sự: Không có.

5. Về án phí: Bị cáo Hồ Quang D phải chịu 200.000 đồng tiền án phí Hình sự sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tròn kể từ ngày tuyên án; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định pháp luật.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

216
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2019/HS-ST ngày 22/01/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:03/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Krông Pắc - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về