Bản án 03/2019/HSST ngày 22/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẤT ĐỎ, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU

BẢN ÁN 03/2019/HSST NGÀY 22/01/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 22 tháng 01 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 51/2018/TLST-HS ngày 27 tháng 12 năm 2018 đối với bị cáo:

Đỗ Phi H - Sinh năm: 1987 tại thành phố Hồ Chí Minh; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và chổ ở: 240 đường Đ, phường A, quận B, thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Phụ hồ; Trình độ văn hoá: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đỗ Công V (đã chết) và bà Nguyễn Thị Tuyết H – Sinh năm 1966; Vợ Nguyễn Thị Kim A- sinh năm: 1993.

Bị cáo có 02 người con, lớn nhất sinh năm 2013, nhỏ nhất sinh năm 2015. Bị cáo là con thứ nhất trong gia đình có 2 anh em.

Tiền án, tiền sự: Không Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 9/10/2018 đến ngày 12/10/2018. Hiện đang áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Bà Trần Thị Nguyệt A- sinh năm: 1985; Địa chỉ: khu phố T, thị trấn Đ, huyện B, tỉnh Bình Phước (Vắng mặt);

- Người làm chứng: Ông Huỳnh Tấn L- sinh năm: 1986; Địa chỉ: Khu phố A, thị trấn B, huyện C, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng tháng 8 năm 2017, Đỗ Phi H bắt đầu nghiện và thường xuyên sử dụng ma túy loại Methamphetamine. Vào tối ngày 6-10-2018, H đến nhà ga tại TP. A để mua ma túy của một người đàn ông không rõ lai lịch với số tiền là 1.500.000đồng. Sau đó, khoảng 21 giờ ngày 7-10-2018, bị cáo H chạy xe mô tô hiệu Yamaha Sirius biển số 93F8 -1960 đem theo số ma túy đến nhà bạn tên T ở huyện X sử dụng. Khoảng 23 giờ ngày 8 tháng 10 năm 2018, H quay về lại TP. A, khi đến tới Quốc lộ 55 thuộc khu phố A, thị trấn B, huyện C thì bị lực lượng chức năng Công an huyện C bắt quả tang.

Tang vật thu giữ của bị cáo Hgồm: 02 gói nilong màu trắng được hàn kín bên trong có chất kết tinh không màu trong suốt; 01 điện thoại di động hiệu Mobistar; 01 xe máy hiệu Yamaha Sirius biển số 93F8 -1960 và số tiền 1.300.000đồng (Một triệu ba trăm ngàn đồng).

Theo bản kết luận giám định số 286/GĐMT – PC09 (Đ4) ngày 12-10- 2018 của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu kết luận: Mẫu kết tinh không màu trong suốt chứa trong 02 gói nilong thu giữ của Đỗ Phi H có khối lượng 3,2239 gam, là chất ma túy, loại Methamphetamine.

Cáo trạng số 03/CT-VKS ngày 25 tháng 12 năm 2018 của Viện kiểm sát huyện C truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Qúa trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi mua, tàng trữ trái phép chất ma túy như nội dung cáo trạng đồng thời thống nhất về điều luật, tội danh đã truy tố, không có ý kiến gì khác.

Tại phần tranh luận:

- Kiểm sát viên đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đất Đỏ trình bày luận tội:

+ Giữ nguyên quyết định truy tố của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đất Đỏ tại bản Cáo trạng số 03/CT-VKS ngày 25 tháng 12 năm 2018 đối với bị cáo Đỗ Phi H về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

+ Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015: Xử phạt bị cáo H từ 12 tháng đến 18 tháng tù;

+ Về hình phạt bổ sung: Không có yêu cầu.

+ Về vật chứng: Đề nghị hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy đựng trong 01 phong bì niêm phong ghi vụ số 286 ngày 12 tháng 10 năm 2018 do Phòng kỹ thuật hình sự hoàn lại sau giám định; tịch thu sung vào ngân sách nhà nước chiếc xe máy hiệu Yamaha Sirius biển số 93F8 -1960.

- Bị cáo thống nhất với bản luận tội của Viện kiểm sát về tội danh, điều luật và việc đề nghị xử lý vật chứng.

- Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo nhận thức hành vi của bản thân là có tội và đồng ý với quyết định truy tố của cáo trạng Viện kiểm sát, không có ý kiến gì thêm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra huyện Đất Đỏ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đất Đỏ trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là đúng quy định pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa đối chiếu với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và những người tham gia tố tụng khác cũng như các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ là phù hợp. Theo đó, xác định được rằng: Bị cáo Đỗ Phi H là đối tượng nghiện ma túy, vào khoảng 23 giờ 30 phút ngày 8 tháng 10 năm 2018, bị cáo đã có hành vi tàng trữ trái phép 02 gói ma túy với trọng lượng 3,2239 gam thì bị lực lượng chức năng bắt quả tang. Việc tàng trữ trái phép chất ma tuý của bị cáo không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản suất trái phép chất ma tuý.

Căn cứ theo kết luận giám định số số 286/GĐMT-PC09 (Đ4) ngày 12 tháng 10 năm 2018 của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu kết luận: Mẫu kết tinh không màu trong suốt chứa trong 02 gói nilong thu giữ của Đỗ Phi H có khối lượng 3,2239 gam, là chất ma túy, loại Methamphetamine.

Như vậy, hành vi của bị cáo như nêu trên đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Đi với người bán ma túy cho H, do H không biết nhân thân, lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không xác định được, sẽ tiếp tục điều tra làm rõ, nếu có căn cứ sẽ xử lý sau.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo gây ra là rất nguy hiểm cho xã hội; xâm phạm đến quyền quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự, an toàn xã hội đồng thời là nguyên nhân làm phát sinh các tội phạm, tệ nạn xã hội khác. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội, cách ly khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ để cải tạo, giáo dục bị cáo đồng thời phòng ngừa chung cho toàn xã hội.

[4] Về tình tiết tăng nặng: Không có.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được áp dụng s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự 2015 để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo H tàng trữ ma tuý chỉ nhằm mục đích sử dụng, thỏa mãn nhu cầu bản thân, bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng vụ án:

- 02 gói nilong màu trắng được hàn kín bên trong có chất kết tinh không màu trong suốt còn lại sau giám định. Đây là vật cấm tàng trữ, không còn giá trị sử dụng nên tịch thu và tiêu hủy.

- Đối với chiếc xe máy hiệu Yamaha Sirius biển số 93F8 -1960 qua xác minh số khung số máy, cơ quan cảnh sát giao thông công an tỉnh BR-VT không xác định được ai đứng tên trên giấy tờ. Tại phiên tòa, bị cáo xác định mua xe của người không rõ lai lịch, khi mua xe không có biển số, bị cáo tự nhặt biển số để gắn vào xe và cũng không chứng minh được mình là chủ sở hữu đồng thời tại phiên tòa không có yêu cầu gì. Do đó, áp dụng khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự để tịch thu, sung vào ngân sách nhà nước.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Mobistar và số tiền 1.300.000đồng không liên quan đến việc phạm tội do đó cơ quan điều tra đã trả lại cho bà H là đúng quy định pháp luật.

[8] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Đỗ Phi H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự 2015; Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 Xử phạt: Bị cáo Đỗ Phi H 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt để thi hành án nhưng được khấu trừ vào thời gian tạm giữ từ ngày 9-10-2018 đến ngày 12-10-2018.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015:

- Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy đựng trong 01 (Một) phong bì niêm phong ghi vụ số 286 ngày 12 tháng 10 năm 2018 do Phòng kỹ thuật hình sự hoàn lại sau giám định; được đóng dấu của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu, có chữ ký của Võ Thanh H, Bùi Văn Đ.

- Tịch thu, sung vào ngân sách nhà nước 01 (Một) chiếc xe Yamaha Sirius số khung RLGS5C630BY435115 số máy 5C63-435161 xe gắn biển số 93F8 1960 (Xe đã qua sử dụng).

(Toàn bộ số vật chứng nêu trên hiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đất Đỏ đang quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng số 11/BB ngày 26 tháng 12 năm 2018).

3. Về án phí: Bị cáo Đỗ Phi H phải chịu 200.000đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm.

4. Bị cáo có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

209
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2019/HSST ngày 22/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:03/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đất Đỏ - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về