Bản án 03/2019/HS-ST ngày 16/01/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĂN YÊN, TỈNH YÊN BÁI

BẢN ÁN 03/2019/HS-ST NGÀY 16/01/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 16 tháng 01 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái. Tòa án nhân dân huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 47/2018/HSST ngày 04-12-2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 01/2019/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 01 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn Ngh, sinh ngày 04-7-1991; Nơi đăng ký hộ khẩu và chỗ ở hiện nay tại: Thôn C, xã A, huyện V, tỉnh Yên Bái; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hoá: 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Thiên chúa; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1963 và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1965. Vợ là Vũ Thị Huyền Tr, sinh năm 1997 và 02 con lớn sinh năm 2014, nhỏ sinh năm 2016.

Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân:

+ Tại bản án số: 70/2017/HSPT ngày 15-02-2017 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội tuyên bố Miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo Nguyễn Văn Ngh đối với hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy.

+ Tại bản án số: 274/2018/HSST ngày 29-10-2018 của Tòa án nhân dân quận Long Biên, thành phố Hà nội xử phạt bị cáo 10 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 01-8-2018 hiện đang bị tạm giam Trại tạm giam số 2 Công an thành phố Hà Nội. Có mặt.

- Những người bị hại:

+ Chị Bùi Thị H, sinh năm 1994.

Trú tại: Tổ 3, khu phố 2, thị trấn M, huyện V, tỉnh Yên Bái. Vắng mặt.

+ Anh Bàn Văn Q, sinh năm 1992.

Trú tại: Thôn L, xã T, huyện V, tỉnh Yên Bái. Vắng mặt.

+ Anh Nguyễn Văn Th, sinh năm 1980.

Trú tại: Thôn Nh, xã C, huyện V, tỉnh Yên Bái. Vắng mặt.

+ Anh Trần Thành L, sinh năm 1997.

Trú tại: Tổ 1, khu phố 2, thị trấn M, huyện V, tỉnh Yên Bái. Vắng mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

+ Anh Bùi Quốc Ch, sinh năm 1989.

Trú tại: Thôn 1, xã Đ, huyện V, tỉnh Yên Bái. Vắng mặt.

+ Anh Hoàng Văn Tr, sinh năm 1997.

Trú tại: Tổ 4, khu phố 2, thị trấn M, huyện V, tỉnh Yên Bái. Vắng mặt.

+ Anh Nguyễn Duy X, sinh năm 1993.

Trú tại: SN 17, Đường Tôn Đức Thắng, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc. Vắng mặt.

- Những người tham gia tố tụng khác:

- Người làm chứng:

+ Anh Đặng Xuân T, sinh năm 1990.

Trú tại: Thôn Đ, xã A, huyện V, tỉnh Yên Bái. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 23h 30 ngày 23-7-2018, Nguyễn Văn Ngh cùng anh trai là Nguyễn Văn T đưa vợ của T là Nguyễn Thị H ra Trung tâm Y tế huyện V, tỉnh Yên Bái để khám bệnh. Khoảng 00h 05 sau khi làm thủ tục nhập viện cho H xong thì T ở lại và bảo Ngh về nhà. Lúc này Ngh nảy sinh ý định lợi dụng sự sơ hở của những bệnh nhân ngủ lại viện để chiếm đoạt tài sản của những người này. Để thực hiện ý định, Nguyễn Văn Ngh đi dọc theo hành lang khoa Nhi của Trung tâm Y tế để quan sát. Khi đến phòng số 6 của khoa Cấp cứu- Nhi, thấy cửa phòng mở mọi người trong phòng đã ngủ, Ngh quan sát thấy chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J7 Prime của chị Bùi Thị H đang sạc để ở nóc tủ cá nhân ở giữa phòng, Ngh đi vào rút sạc ra và lấy chiếc điện thọai cho vào túi quần bên phải và đi ra ngoài hành lang, Ngh tiếp tục đi đến phòng 10 của khoa Cấp cứu- Nhi thì thấy cửa phòng mở, trong phòng mọi người đã ngủ say, Ngh thấy chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Galaxy J2 Prime của anh Bàn Văn Q đang sạc để ở đầu giường, Ngh đi đến và lấy chiếc điện thoại cho vào túi quần bên phải rồi đi xuống tầng 1. Ngh tiếp tục đi sang khoa Ngoại và đi lên tầng 2 theo cầu thang bộ. Khi đến phòng số 2, Ngh thấy cửa phòng mở, trong phòng mọi người đang ngủ, ở giường thứ 2 giữa phòng bệnh có 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO Neo 7 của anh Nguyễn Văn Th để ở đầu giường, Ngh đi đến và lấy chiếc điện thoại bỏ vào túi quần bên phải rồi đi ra quán nước ngoài cổng Trung tâm Y tế huyện V ngồi uống nước. Khoảng 01h 00 ngày 24-7-2018 Ngh tiếp tục đi vào các phòng điều trị của Trung tâm Y tế để trộm cắp điện thoại, Ngh đi đến phòng số 2, tấng 1 của khoa Cấp cứu thì thấy cửa phòng mở, trong phòng mọi người đang ngủ, quan sát thấy ở giường bệnh thứ nhất bên trái hướng từ cửa buồng đi vào có chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 8 Plus của anh Trần Thành L đang để ở trên giường ngang hông của anh Hoàng Văn Tr (chiếc điện thoại này anh L cho anh Tr mượn). Ngh đi vào nhanh chóng lấy chiếc điện thoại cho vào túi quần bên trái rồi đi ra cổng lấy xe đi về nhà ngủ.

Chiều ngày 25-7-2018 Ngh mang chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO Neo 7 chiếm đoạt được của anh Nguyễn Văn Th và chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Galaxy J2 Prime chiếm đoạt được của anh Bàn Văn Q bán cho Cửa hàng điện thoại của anh Bùi Quốc Ch được 1.800.000đ sau đó bắt xe khách xuống thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc. Khoảng 18h ngày 25-7-2018, Ngh mang chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 8 Plus chiếm đoạt được của anh Hoàng Văn Tr bán cho anh Nguyễn Duy X với số tiền 10.000.000đ còn chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J7 Prime chiếm đoạt được của chị Bùi Thị H, Ngh giữ lại để sử dụng. Ngày 26-7-2018 Ngh đi xuống Hà Nội và chi tiêu hết số tiền bán những chiếc chiếm đoạt được. Rạng sáng ngày 01-8-2018 Ngh tiếp tục đi vào Bệnh viện Đa khoa Đức Giang, quận Long Biên, thành phố Hà Nội để thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của những bệnh nhân trong bệnh viện thì bị phát hiện bắt quả tang.

Quá trình điều tra bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu ở trên.

Cơ quan điều tra công an quận Long Biên, thành phố Hà Nội đã tạm giữ chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J7 Prime mà bị cáo chiếm đoạt được của chị Bùi Thị H. Quá trình điều tra cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái đã thu hồi được chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO Neo 7 mà bị cáo chiếm đoạt được của anh Nguyễn Văn Th. Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Galaxy J2 Prime và chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 8 Plus bị cáo chiếm đoạt được của anh Bàn Văn Q và anh Hoàng Văn Tr quá trình điều tra không thu hồi được.

Cơ quan tiến hành tố tụng đã tiền hành trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp chiếc điện di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J7 Prime và chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO Neo 7 là chị Bùi Thị H và anh Nguyễn Văn Th. Còn 02 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Galaxy J2 Prime và chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 8 Plus quá trình điều tra gia đình bị cáo đã bồi thường cho các bị hại.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố về hành vi của bị cáo Nguyễn Văn Ngh đủ yếu tố cấu thành tội Trộm cắp tài sản. Bị cáo đã có hành vi lợi dụng sự sơ hở, mất cảnh giác của chủ sở hữu lén lút chiếm đoạt 04 chiếc điện thoại di động nhằm mục đích bán để lấy tiền chi tiêu cho bản thân như đã nêu trên.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số: 21/ĐGTS-HĐĐG ngày 17-8-2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái kết luận:

Giá trị của tài sản trưng cầu định giá tại thời điểm ngày 24-7-2018 có tổng giá trị 23.300.000đ. Trong đó:

+ Chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 8 Plus đã qua sử dụng có giá tại thời điểm tháng 7-2018 là 16.500.000đ.

+ Chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J7 Prime đã qua sử dụng có giá tại thời điểm tháng 7-2018 là 3.000.000đ.

+ Chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J2 Prime đã qua sử dụng có giá tại thời điểm tháng 7-2018 là 2.400.000đ.

+ Chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO Neo 7 đã qua sử dụng có giá tại thời điểm tháng 7-2018 là 1.400.000đ.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, những người bị hại không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận định giá nêu trên.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Nguyễn Văn Ngh đã thành khẩn khai nhận hành vi lợi dụng sự sơ hở, mất cảnh giác của chủ sở hữu lén lút chiếm đoạt 04 chiếc điện thoại di động nhằm mục đích bán để lấy tiền chi tiêu cho bản thân như đã nêu trên. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại bản Cáo trạng số: 33/CT-VKS-VY ngày 08-10-2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái đã truy tố bị cáo: Nguyễn Văn Ngh về tội Trộm cắp tài sản theo khoản 1 điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội Trộm cắp tài sản.

Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Ngh phạm tội Trộm cắp tài sản Áp dụng khoản 1 điều 173, điểm b, s khoản 1, khoản 2 điều 51, điểm g khoản 1 điều 52 Bộ luật Hình sự.

Tuyên phạt bị cáo Nguyễn Văn Ngh từ 12 tháng đến 18 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản.

Do bị cáo không có tài sản, nghề nghiệp, thu nhập nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng khoản 1 điều 48 Bộ luật hình sự, điều 122,điều 123, điều 131, điều 357, điều  407, điều 468, điều 584, điều 585, điều 586, điều 589 Bộ luật Dân sự. Buộc bị cáo phải bồi thường cho anh Bùi Quốc Ch số tiền 800.000đ.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo gửi lời xin lỗi tới các bị hại và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng:

[1.1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, các bị hại và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[1.2]. Về sự vắng mặt của những người bị hại, những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng Hội đồng xét xử xét thấy lời khai của họ đã có đầy đủ trong hồ sơ vụ án nên viêc vắng mặt của họ không làm ảnh hưởng đến việc xét xử nên Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử vụ án.

 [2]. Về nội dung:

[2.1]. Xem xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa thấy phù hợp với: Biên bản thu giữ vật chứng, biên bản hiện trường, phù hợp với lời khai của những người bị hại, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận: Trong khoảng thời gian từ 00h 50 đến hơn 01h ngày 24-7-2018 tại khu vực khoa Cấp cứu –Nhi và khoa Cấp cứu trung tâm Y tế huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái, bị cáo Nguyễn Văn Ngh đã có hành vi lợi dụng sự sơ hở, mất cảnh giác của các chủ sở hữu lén lút chiếm đoạt 04 chiếc điện thoại di động các loại có tổng trị giá 23.300.000đ của các chủ sở hữu nhằm mục đích bán để lấy tiền chi tiêu cho bản thân. Hành vi của Nguyễn Văn Ngh đã phạm tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 điều 173 Bộ luật Hình sự.

[2.2]. Xét hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an và an toàn xã hội. Do đó, cần có hình thức xử lý nghiêm minh để giáo dục và phòng ngừa tội phạm.

[2.3]. Xét nhân thân của bị cáo Nguyễn Văn Ngh: Tại bản án số: 70/2017/HSPT ngày 15-02-2017 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội tuyên bố Miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo Nguyễn Văn Ngh đối với hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy đây không coi là tiền án, ngày 29-10-2018 Tòa án nhân dân quận Long Biên, thành phố Hà Nội xử phạt bị cáo 10 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Do hành vi phạm tội mà bị cáo thực hiện và bị xét xử sau khi bị cáo thực hiện hành vi phạm tội được xét xử lần này nên không bị coi là tiền án nhưng hành vi của bị cáo thực hiện tại hai bản án của Tòa án nhân dân thành phố Hà nội và Tòa án nhân dân quận Long Biên, thành phố Hà nội là căn cứ để Hội đồng xét xử xem xét, đánh giá về nhân thân bị cáo. Bị cáo là người có sức khỏe, có khả năng điều khiển mọi hành vi hoạt động của bản thân, nhận thức được việc chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng do lười lao động, thiếu tu dưỡng rèn luyện bản thân, muốn kiếm tiền một cách bất chính để phục vụ nhu cầu của bản thân đã cố ý thực hiện tội phạm.

[2.4]. Trong một khoảng thời gian ngắn bị cáo đã 04 lần thực hiện hành vi lén lút chiếm đọat tài sản của người khác trong đó có 03 lần giá trị của tài sản mà bị cáo chiếm đoạt trên 2.000.000đ nên bị cáo còn phải chịu tình tiết tăng nặng phạm tội 02 lần trở lên.

Tuy nhiên, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ sau: Tại phiên tòa cũng như tại Cơ quan điều tra bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo đã tác động gia đình trong việc bồi thường, khắc phục hậu quả, các bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được Hội đồng xét xử xem xét đối với bị cáo khi quyết định hình phạt.

Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo thấy cần phải có mức hình phạt thỏa đáng tương xứng với mức độ phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian để giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người có ích cho xã hội cũng như đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung.

[2.5]. Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử xét thấy bản thân bị cáo không có tài sản, không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[2.6]. Đối với Bùi Quốc Ch là người đã mua 02 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO Neo 7 và chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Galaxy J2 Prime, Nguyễn Duy X là người đã mua chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 8 Plus do bị cáo phạm tội mà có, nhưng anh Ch, anh X không biết những tài sản mà bị cáo mang đến bán là tài sản do phạm tội mà có nên không đủ yếu tố cấu thành tội Tiêu thu tài sản do người khác phạm tội mà có, Cơ quan điều tra không xử lý đối với hành vi này của anh Ch và anh X là phù hợp.

[2.7]. Về trách nhiệm dân sự:

Tại Cơ quan điều tra anh Th, chị H xác nhận đã nhận lại chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO Neo 7 và chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Galaxy J7 Prime do Cơ quan tố tụng huyện Văn Yên trao trả, anh Th, chị H không có yêu cầu bồi thường hay đề nghị gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Quá trình điều tra, gia đình bị cáo đã bồi thường trị giá của 02 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Galaxy J2 Prime và chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 8 Plus cho chủ sỏ hữu hợp pháp. Các chủ sở hữu hợp pháp không có yêu cầu hay đề nghị gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Tại phiên tòa anh Bùi Quốc Ch vắng mặt nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt và có yêu cầu bị cáo phải trả cho anh số tiền 800.000đ là trị giá của chiếc điện thoại anh mua của bị cáo và đã giao nộp cho cơ quan điều tra. Xét yêu cầu của anh Ch là có cơ sở được chấp nhận.

[2.8]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm.

[2.9]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, những người bị hại, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Ngh phạm tội: Trộm cắp tài sản.

2. Về hình phạt:

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 điều 52 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo 01(Một) năm tù.

Căn cứ khoản 1 Điều 56 Bộ luật hình sự.

Tổng hợp hình phạt 10 (Mười) tháng tù tại bản án số: 274/2018/HSST ngày 29-10-2018 của Tòa án nhân dân quận Long Biên, thành phố Hà nội. Buộc bị cáo phải thi hành hình phạt chung của hai bản án là 01 (Một) năm 10 (Mười) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam, ngày 01-8-2018.

3. Về trách nhiệm dân sự:

Áp dụng khoản 1 điều 48 Bộ luật hình sự, điều 122, điều 123, điều 131, điều 357, điều 407, điều 468, điều 584, điều 585, điều 586, điều 589 Bộ luật Dân sự. Buộc bị cáo phải bồi thường cho anh Bùi Quốc Ch số tiền 800.000đ.

Đối với khoản tiền nêu trên, kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án mà bên phải thi hành không trả đủ số tiền nêu trên cho người được thi hành án thì hàng tháng còn phải chịu thêm một khoản tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 điều 468 Bộ luật dân sự tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.

4. Về án phí:

Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm a, c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo Nguyễn Văn Ngh phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm và 300.000đ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo:

Bị cáo được quyền kháng cáo đối với bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Những người bị hại, những có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo đối với bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

" Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự "

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

270
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2019/HS-ST ngày 16/01/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:03/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Văn Yên - Yên Bái
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về