TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỦ THỪA, TỈNH LONG AN
BẢN ÁN 03/2019/HSST NGÀY 12/03/2019 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 12 tháng 3 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 37/2018/TLST-HS ngày 21 tháng 12 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2019/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 02 năm 2019 đối với bị cáo:
Họ và tên: Tô Kim H, tên gọi khác: Hùng. Sinh năm 1984, tại tỉnh Phú Thọ. Giới tính: Nam. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Khu 8, xã X, huyện H, tỉnh Phú Thọ. Chỗ ở hiện nay: Không có chỗ ở cố định. Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh: Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam. Con ông Tô Ngọc H, sinh năm 1960 và bà Lê Thị Liên P, sinh năm 1960. Có vợ Nguyễn Thị Bích T, sinh năm 1989 (chưa đăng ký kết hôn) và có 02 con. Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Chưa có tiền án tiền sự, bị Công an thành phố Hà Nội và tỉnh Phú Thọ truy nã về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Bị cáo hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hậu Giang . (có mặt) h i: Anh Nguyễn Thành Đ, sinh năm 1987. Địa chỉ: Ấp 1A, xã Hựu Thạnh, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. (có mặt) Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
1- Ông Nguyễn Tấn D, sinh năm 1957. Địa chỉ: phường T, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh. (có mặt)
2- Anh Lê Văn M, sinh năm 1976. Địa chỉ: xã B, huyện G, tỉnh Tiền Giang. (có mặt)
Người làm chứng: Anh Nguyễn Trường V, sinh năm 1976. Địa chỉ: phường A, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Tô Kim H là đối tượng bị Công an thành phố Hà Nội và tỉnh Phú Thọ truy nã về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Quá trình lẩn trốn vào các tỉnh, thành phía nam H tiếp tục thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của nhiều người mà chủ yếu là xe đào bánh xích (thường gọi xe đào hoặc xe Kobe). Ngày 17/01/2016, H phát hiện xe đào bánh xích hiệu HITACHI UH04-7 của anh Nguyễn Thành Đ đậu tại khu vực huyện Đức Hòa, tỉnh Long An trên cần xe có số điện thoại của anh Đ nên H nẩy sinh ý định chiếm đoạt. H sử dụng số điện thoại 0913241128 điện cho anh Đ, H xưng tên là “Tình” nói dối anh Đ là cần thuê xe để thi công công trình tại Khu công nghiệp Long Hậu-Hòa Bình, ở ấp 7, xã Nhị Thành, huyện Thủ Thừa. Anh Đ tin thật nên đồng ý và hẹn gặp nhau tại khu vực ngã tư An Sương, Quận 12, TP.Hồ Chí Minh để ký hợp đồng. Để lừa anh Đ, H in danh thiếp với tên là Hà Văn Tình – chức vụ Phó Giám đốc Sàn giao dịch bất động sản Năm Sao, số điện thoại 0913241128, địa chỉ 166-168-170, đường Hải Thượng Lãn Ông, Phường 10, Quận 5, TP.Hồ Chí Minh. H thuê 01 xe ô tô Ford Everest 7 chỗ màu đen tại TP.Hồ Chí Minh (không rõ chủ sở hữu và biển số xe) rồi H thay biển số giả để đi giao dịch. Sau khi gặp anh Đ ký hợp đồng thuê xe đào, H nói phải đem hợp đồng về công ty đóng dấu nên không đưa cho anh Đ. Ngày 18/01/2016, anh Đ đưa xe đào đến Khu công nghiệp Hòa Bình theo hợp đồng, tại đây H chỉ vào lô đất của Công ty TNHH Internal Prowess Việt Nam nói là vị trí cần thi công. Anh Đ giao anh Lê Văn M là người làm công ở lại để lái xe đào và trông giữ xe, còn anh Đ về nhà ở huyện Đức Hòa. Ngay trong ngày 18/01/2016, H điện thoại cho ông Nguyễn Tấn D là người chuyên mua bán xe đào ở Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh để bán xe của anh Đ. Sáng ngày 20/01/2016, anh M về dự đám tang người thân ở Tiền Giang và đưa chìa khóa xe đào cho H quản lý. Khoảng 14 giờ cùng ngày ông D đến Khu công nghiệp Hòa Bình để coi xe và thử xe, ông D và H thống nhất giá mua bán là 170.000.000đ, ông D đặt cọc trước 50.000.000đ, hẹn qua ngày hôm sau xuống chở xe sẽ trả đủ tiền. Khoảng 20 giờ cùng ngày, ông D đến nhà ông Võ Đại C ở Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh để thuê xe tải, ông D gặp và đưa anh Nguyễn Trường V là tài xế lái xe ô tô tải 120.000.000 đồng để trả cho Tô Kim H khi nhận xe đào. Khoảng 8 giờ ngày 21/01/2016, anh V cùng với phụ xe là anh Trương Quang T điều khiển xe ô tô tải biển số 51C-443.48 đến Khu công nghiệp Hòa Bình gặp Tô Kim H, anh V đưa cho H 120.000.000 đồng. Sau khi nhận được tiền H lên xe ô tô bỏ đi, anh V và anh T đưa xe đào lên xe ô tô tải chở về bãi xe của ông D. Trong xe đào có một số đồ dùng cá nhân và giấy chứng minh của anh M, H giữ lại giấy chứng minh để sử dụng còn số đồ cá nhân thì H vứt bỏ. Trưa cùng ngày, anh Đ điện thoại cho H nói việc thanh toán tiền công thì H nhắn tin vào điện thoại của anh Đ là “liên hệ với kế toán của H theo số điện thoại 0913925020”. Khi anh Đ gọi vào số 0913925020 thì được biết đây là số điện thoại của ông D, là người vừa mua xe đào từ Tô Kim H, biết mình bị lừa nên anh Đ đến cơ quan Công an trình báo. Ngày 23/01/2016, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thủ Thừa làm việc với ông Nguyễn Tấn D, ông D tự nguyện giao nộp xe đào. Tô Kim H sau khi gây án đã vứt bỏ điện thoại di động và sim số 0913241128, số tiền 170.000.000đ thì H đã tiêu xài cá nhân hết.
Ngày 19/12/2017, Tô Kim H thực hiện hành vi trộm cắp xe đào bánh xích tại ấp Phú Xuân, thị trấn Mái Dầm, huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang. Đến ngày 06/6/2018, Tô Kim H bị Công an tỉnh Hậu Giang bắt giữ khi đang lẩn trốn tại huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang.
Vật chứng: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Thủ Thừa thu giữ và đã trả lại cho anh Nguyễn Thành Đ một xe đào bánh xích HITACHI UH04-7, số khung I2A-I8800, số máy 917081, màu cam đỏ. Riêng hợp đồng thuê máy đào của anh Đ và danh thiếp H làm lấy tên Hà Văn T - Phó giám đốc Sàn giao dịch bất động sản Năm Sao không thu hồi được, Giấy chứng minh nhân dân của anh M bị cáo lấy sử dụng hiện Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Hậu Giang đang tạm giữ.
Tại kết luận số 126/KLĐGTS ngày 02/02/2016 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Thủ Thừa kết luận: Xe đào bánh xích HITACHI UH04-7 của anh Nguyễn Thành Đ trị giá: 272.000.000đ.
Tại Cáo trạng số 01/QĐ-KSĐT ngày 20/12/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An đã truy tố bị cáo Tô Kim H về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015. Kiểm sát viên tham gia phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 38; Điều 50; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm a khoản 3 Điều 174 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Tô Kim H từ 08 năm đến 09 năm tù. Buộc Tô Kim H bồi thường cho ông Nguyễn Tấn D số tiền là 170.000.000 đồng.
Tại phiên tòa, bị cáo H khai nhận hành vi chiếm đoạt tài sản của anh Đ như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thủ Thừa đã nêu. Bị cáo H còn khai nhận sau khi anh Đ đưa xe đào đến Khu công nghiệp Hòa Bình thì H có mời anh M đi ăn, lúc đó H mượn xe mô tô của anh M đi đến khu vực chợ Tân An làm thêm một chìa khóa xe đào, trường hợp anh M về nhà không đưa lại chìa khóa xe đào thì bị cáo cũng có chìa khóa khác để sử dụng và đưa anh M đi nơi khác ăn uống để bán xe.
Người bị hại là anh Nguyễn Thành Đ trình bày xe đào bánh xích anh đã nhận lại, anh yêu cầu xử lý hành vi của bị cáo H, không yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án là ông Nguyễn Tấn D trình bày: Sau khi thỏa thuận thống nhất giá mua bán máy đào thì ông đưa H 50.000.000 đồng tiền cọc và H có đưa cho ông D chìa khóa xe đào H khi anh V đi chở xe đào thì ông D quên đưa chìa khóa, khi đến nơi thì H có đưa cho anh V một chìa khóa khác để mở máy xe đào, chứng tỏ H đã có chuẩn bị trước. Ông D yêu cầu Tô Kim H bồi thường cho ông số tiền là 170.000.000 đồng.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án là anh Lê Văn M trình bày: Anh đã được cấp lại giấy chứng minh nhân dân mới, anh không yêu cầu bồi thường hay nhận lại áo quần, giấy tờ bị mất.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Lời khai của bị cáo Tô Kim H tại phiên tòa phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra và phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng cùng với các tài liệu chứng cứ đã được thu thập. Từ đó có đủ căn cứ kết luận: Vào ngày 17/01/2016, bị cáo H phát hiện trên máy đào của anh Đ có ghi số điện thoại để liên hệ, bị cáo đã thực hiện nhiều thủ đoạn gian dối nhằm để lấy tài sản của anh Đ đem bán, như bị cáo làm danh thiếp xưng tên Hà Văn Tình là Phó giám đốc Sàn giao dịch bất động sản Năm Sao để ký hợp đồng thuê phương tiện thi công H thực chất bị cáo không làm việc cho công ty nào và không có một công trình nào để sử dụng máy đào. Theo yêu cầu của H, ngày 21/01/2016 anh Đ đưa máy đào bánh xích HITACHI UH04-7 đến Khu công nghiệp Hòa Bình thì bị cáo kêu người bán lấy tiền tiêu xài. Về ý chí chủ quan, ngay sau khi thấy tài sản của anh Đ thì bị cáo H đã muốn chiếm đoạt, bị cáo đã thực hiện nhiều thủ đoạn gian dối làm cho chủ sở hữu, người quản lý tài sản tin tưởng giao tài sản cho bị cáo rồi bị cáo bán tài sản đó lấy tiền tiêu xài. Hành vi của bị cáo H đã xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác và hành vi đó đã phạm vào tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Tài sản bị cáo H chiếm đoạt trị giá 272.000.000 đồng thuộc tình tiết định khung tại điểm a khoản 3 Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009).
[2] Thời điểm bị cáo H thực hiện hành vi phạm tội, Bộ luật hình sự 2015 đã được công bố H chưa có hiệu lực thi hành. So với quy định của Bộ luật hình sự năm 1999, tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015 đã xóa bỏ hình phạt bổ sung “tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản” (khoản 5) và tình tiết tăng nặng định khung “gây hậu quả nghiêm trọng” (khoản 2) H ở cấu thành cơ bản của Điều 174 đã bổ sung hai hành vi phạm tội mới nên không có cơ sở để cho rằng quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 là có lợi cho người phạm tội. Trong bản Danh Mục một số quy định có lợi cho người phạm tội của Bộ luật hình sự năm 2015 ban hành kèm theo Công văn số 276/TANDTC-PC ngày 13 tháng 9 năm 2016 của Tòa án nhân dân tối cao cũng không có tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Căn cứ Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội, Hội đồng xét xử áp dụng quy định của Bộ Luật hình sự năm 1999 để xét xử.
[3] Bị cáo Tô Kim H là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, biết tài sản của người khác luôn được pháp luật bảo vệ H do bản chất lười lao động lại thích hưởng thụ nên bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, vì vậy bị cáo phải chịu trách nhiệm về hành vi mà bị cáo đã thực hiện. Hành vi của bị cáo không chỉ xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác mà còn gây mất an ninh, trật tự ở địa phương. Năm 2008, Tô Kim H bị Công an thành phố Hà Nội và tỉnh Phú Thọ truy nã về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, H lẩn trốn vào các tỉnh, thành phía nam và tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội chứng tỏ bị cáo là người rất xem thường pháp luật. Vì vậy, để giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung thấy cần phải áp dụng cho bị cáo hình phạt tù, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian. Khi lượng hình Hội đồng xét xử có cân nhắc thấy bị cáo có thành khẩn khai báo nên áp dụng các điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
[4] Ông Nguyễn Tấn D người đã mua xe đào bánh xích HITACHI UH04-7 từ Tô Kim H, khi mua ông D không biết đây là tài sản do Tô Kim H phạm tội mà có nên ông D không chịu trách nhiệm về hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.
[5] Về vật chứng: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Thủ Thừa có thu hồi xe đào bánh xích HITACHI UH04-7, số khung I2A-I8800, số máy 917081, màu cam và đã trả lại cho anh Nguyễn Thành Đ; Hợp đồng thuê máy đào và danh thiếp H làm lấy tên Hà Văn Tình - Phó giám đốc sàn giao dịch bất động sản Năm Sao không thu hồi được nên không cần phải xử lý. Riêng giấy chứng minh nhân dân của anh Lê Văn M, tại phiên tòa bị cáo H khai khi bị bắt Cơ quan điều tra Công an tỉnh Hậu Giang tạm giữ, nay anh M không có nhu cầu lấy lại để sử dụng nên giao Cơ quan tiến hành tố tụng hình sự tỉnh Hậu Giang xử lý.
[6] Trách nhiệm dân sự: Ông Nguyễn Tấn D yêu cầu Tô Kim H bồi thường số tiền 170.000.000 đồng là phù hợp với quy định Điều 42 Bộ luật hình sự năm 1999, vì vậy buộc bị cáo H phải có trách nhiệm bồi thường.
[7] Về án phí: Bị cáo Tô Kim H phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm và 8.500.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.
[8] Quá trình điều tra, Tô Kim H còn khai nhận trong thời gian lẩn trốn còn thực hiện nhiều vụ chiếm đoạt tài sản tại các tỉnh, thành phố khác như Gia Lai, Khánh Hòa, Đồng Nai, Bình Dương, Tây Ninh, Tiền Giang, Đồng Tháp, Bến Tre, Ninh Thuận, Bình Thuận, TP. Hồ Chí Minh và Cần Thơ với tổng cộng 30 xe đào bánh xích. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Hậu Giang đã thông báo cho các tỉnh, thành phố nêu trên để tiến hành điều tra xử lý theo thẩm quyền. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thủ Thừa, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An có văn bản đề nghị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Hậu Giang xem xét tiếp nhận vụ án để điều tra, xử lý chung H các cơ quan tố tụng tỉnh Hậu Giang không thống nhất tiếp nhận. Hành vi tố tụng, quyết định của Điều tra viên và Kiểm sát viên được phân công thực hiện trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử đúng theo các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, người tham gia tố tụng không khiếu nại nên hành vi tố tụng, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên đều hợp pháp.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Bị cáo Tô Kim H phạm tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Căn cứ Điều 33; Điều 45; các điểm p khoản 1 Điều 46; điểm a khoản 3 Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999;
Xử phạt bị cáo Tô Kim H 09 (chín) năm tù.
Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành hình phạt.
2. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 42 Bộ luật hình sự năm 1999;
Buộc bị cáo Tô Kim H phải bồi thường cho ông Nguyễn Tấn D số tiền 170.000.000 (Một trăm bảy mươi triệu đồng).
Từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong thì Tô Kim H phải trả thêm tiền lãi đối với số tiền còn phải trả, theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 648 Bộ luật dân sự tương ứng với thời gian chậm thi hành án.
3. Về án phí: Bị cáo Tô Kim H phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) hình sự sơ thẩm và 8.500.000 đồng (Tám triệu năm trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
4. Án này xử sơ thẩm, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án 12/3/2019.
5. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 03/2019/HSST ngày 12/03/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Số hiệu: | 03/2019/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thủ Thừa - Long An |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 12/03/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về