Bản án 03/2019/HNGĐ-ST ngày 29/03/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠC SƠN - TỈNH HOÀ BÌNH

BẢN ÁN 03/2019/HNGĐ-ST NGÀY 29/03/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 29 tháng 3 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lạc Sơn - tỉnh Hòa Bình. Tòa án nhân dân huyện Lạc Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 210/2018/TLST-HNGĐ ngày 10 tháng 12 năm 2018 về tranh chấp về hôn nhân và gia đình. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 04/2019/QĐXX-ST ngày 28/2/2019 và quyết định hoãn phiên tòa số 03/2019/QĐST-HNGĐ ngày 14/3/2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: chị Quách Thị H. Sinh năm 1988; Địa chỉ: xóm Éo, xã Phú Lương, Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình. Có mặt.

- Bị đơn: Anh Bùi Văn H, sinh năm 1990; Địa chỉ: xóm Éo, xã Phú Lương, huyện Lạc Sơn, Hòa Bình. Vắng mặt lần thứ hai không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Quách Thị H trình bày:

Về tình cảm: chị và anh Bùi Văn H kết hôn từ năm 2013 trên cơ sở tự nguyện, không ai ép buộc và đăng ký kết hôn tại UBND xã Phú Lương và tổ chức kết hôn theo phong tục tập quán địa phương.

Thời gian đầu chung sống, hai vợ chồng sống hòa thuận, yêu thương nhau, đến năm 2014 thì hai vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do hai vợ chồng bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cãi vã xung đột khiến mâu thuẫn vợ chồng rất trầm trọng do anh H luôn nghi ngờ chị có quan hệ ngoại tình với người đàn ông khác. Hai vợ chồng đã ly thân từ cuối năm 2014. Cho đến thời điểm này, chị H xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị đề nghị Quý Tòa giải quyết ly hôn với anh Bùi Văn H.

Về con chung: Trong thời kỳ hôn nhân, anh chị 01 con chung là cháu Bùi Thị Kim Liên (con gái) sinh ngày 22/8/2014. Trong đơn ly hôn và trong quá trình hòa giải chị H đề nghị khi vợ chồng ly hôn chị H đồng ý để anh Bùi Văn H trực tiếp nuôi dưỡng và chưa thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn.

Tuy nhiên tại phiên tòa chị H yêu cầu được trực tiếp nuôi con, trước đây vì quá sợ bố mẹ chồng gây khó khăn nên chị mới đề nghị giao cháu Liên cho anh H. Nay anh H không có mặt tại địa phương, hơn nữa tình trạng sức khỏe anh H không đảm bảo, nên chị đề nghị HĐXX giao con chung cho chị nuôi dưỡng.

Về tài sản chung, công nợ: không đề nghị tòa án giải quyết.

Ngoài ra chị H không có yêu cầu gì thêm.

Về phía anh Bùi Văn H: Sau khi thụ lý vụ án,Tòa án đã gửi các các văn bản tố tụng: Thông báo thụ lý vụ án; Thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Quyết định hoãn phiên tòa, tuy anh H tại các thời điểm đó có mặt tại địa phương nhưng anh H không đến tham gia tố tụng và cũng không có ý kiến về việc giải quyết vụ án gửi cho Tòa án.

* Tại biên bản xác minh ngày ngày 23/01/2019 của Tòa án nhân dân huyện Lạc Sơn chính quyền địa phương nơi cư trú của anh Bùi Văn H và chị Quách Thị H có nội dung:

Anh Bùi Văn H và chị Quách Thị H kết hôn năm 2013 trên cơ sở tự nguyện, tự do tìm hiểu và đăng ký kết hôn hợp pháp tại UBND xã Phú Lương. Thời gian đầu hai vợ chồng chung sống hạnh phúc. Nhưng từ đầu năm 2014 đến nay hai vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, bất hòa. Nguyên nhân là do anh H không tin tưởng chị H, luôn nghi ngờ chị H có quan hệ ngoại tình với người đàn ông khác khiến hai vợ chồng thường xuyên xảy ra xung đột, cãi vã. Mặc dù cả hai vợ chồng đã được bố mẹ hai bên khuyên bảo nhưng tình trạng không hề thay đổi khiến mâu thuẫn vợ chồng, nên trầm trọng. Hai vợ chồng li thân từ cuối năm 2014 đến nay, khả năng đoàn tụ là rất khó.

Về con chung: Trong quá trình chung sống, anh H và chị H có 01 con chung là cháu Bùi Thị Kim Liên (con gái) sinh ngày 22/8/2014.

Về điều kiện nuôi con của anh H và chị H: anh H và chị H đều có có công việc chính là làm ruộng, ngoài ra khi chưa vào vụ mùa thì cả hai còn đi làm thuê để kiếm thêm thu nhập. Cả hai đều có thu nhập, chỗ ở ổn định vì thế điều kiện nuôi con của anh H và chị H là ngang nhau..

*Phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa:

Về tố tụng: Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình công nhận việc chấp hành đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự của Thẩm phán, HĐXX và các đương sự từ khi thụ lý đến trước khi HĐXX nghị án.

Về nội dung:

- Về quan hệ hôn nhân: xác định mâu thuẫn giữa chị H và anh H đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị H..

- Về con chung: Đề nghị giao Bùi Thị Kim Liên (con gái) sinh ngày 22/8/2014 cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, bởi hiên tại anh H không có mặt tại địa phương, cũng không đến tòa án để bảo vệ cho quyền lợi của mình. Chị H chưa yêu cầu thực hiện cấp dưỡng nuôi con chung nên đề nghị HĐXX chưa xem xét vấn đề cấp dưỡng nuôi con trong vụ án.

- Về tài sản chung, công nợ chung: Đương sự không yêu cầu nên đề nghị không đề cập giải quyết trong vụ án.

- Về án phí: chị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án; được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa HĐXX nhận định:

1. Về tố tụng: Đây là vụ án Hôn nhân và Gia đình “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”. Bị đơn là anh Bùi Văn H có hộ khẩu thường trú tại xóm Éo, xã Phú Lương, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình. Vì vậy,Tòa án nhân dân huyện Lạc Sơn thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án tiến hành thông báo và tống đạt đầy đủ các văn bản cho các bên đương sự theo quy định tại khoản 1 Điều 175 và khoản 1, 2 Điều 177 của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải theo quy định tại Điều 211 BLTTDS. Tiến hành hòa giải theo quy định tại Điều 205 BLTTDS để hai bên thỏa thuận với nhau việc giải quyết vụ án. Anh H đã được triệu tập hợp lệ đến phiên hòa giải hai lần nhưng anh H đều không đến để tham gia hòa giải nên Tòa án không tiến hành hòa giải được. Đây là trường hợp không tiến hành hòa giải được theo quy định tại khoản 1 Điều 207 BLTTDS. Bị đơn là anh Bùi Văn H đã được triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do chính đáng. Căn cứ khoản 1 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt anh H.

2 Về quan hệ hôn nhân: quan hệ hôn nhân giữa chị H và anh H được xác lập trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn, là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống chị H và anh H và không có hạnh phúc; do anh H không tin tưởng chị H khiến hai vợ chồng thường xuyên xảy ra xung đột, cuộc sống gia đình thường xuyên bất hòa.

Từ những nhận định trên mâu thuẫn giữa chị H và anh H đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không thể đạt được nên HĐXX chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị H là phù hợp Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

3. Về con chung và cấp dưỡng:

Vợ chồng có một con chung là cháu Bùi Thị Kim Liên, sinh ngày 22/8/2014, hiện tại cháu Liên đang ở với ông bà nội. Trong quá trình giải quyết vụ án do chị H sợ phía nhà chồng gấy khó khăn trong việc nuôi con nên đề nghị giao con cho anh H, nhưng tại phiên tòa chị H xin nhận trực tiếp nuôi dưỡng cháu, vì cháu là con gái cần có sự chăm sóc của người mẹ hơn.

Theo kết quả xác minh tại địa phương thấy hiện tại anh H và chị H đều có chỗ ở ổn định, công việc làm thêm đủ khả năng nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục con cái. Anh H hiện không có mặt tại địa phương nên không thể trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con được. Vì vậy, để đảm bảo quyền lợi và sự phát triển về mọi mặt của con chung cũng như để cho cháu Liên có cuộc sống ổn định, tránh sự xáo trộn cần chấp nhận yêu cầu của chị H, giao con chung cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng kể từ tháng 4/2019 trở đi cho đến khi cháu Liên đủ 18 tuổi, hoặc cho đến khi có sự thay đổi khác Vấn đề cấp dưỡng nuôi con: chị H chưa đặt ra yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung. Căn cứ kết quả xác minh tại địa phương về điều kiện nuôi con của chị H; căn cứ các Điều 82,83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 HĐXX thấy chưa cần thiết giải quyết vấn đề vấp dưỡng nuôi con chung trong vụ án. Việc cấp dưỡng nuôi con sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác khi có yêu cầu.

4. Về tài sản chung, công nợ chung: Đương sự không yêu cầu nên không đề cập giải quyết trong vụ án.

5. Về án phí: chị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

 6. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời gian luật định.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 51; 56; 58; 81; 82; 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ Điều 28; 35; 39; 147; 227; 228; 271 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án

1. Về hôn nhân: Xử cho chị Quách Thị H được ly hôn với anh Bùi Văn H.

2. Về con chung: Giao con chung là cháu Bùi Thị Kim Liên sinh ngày 22/8/2014 cho chị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục kể từ tháng 4/2019 trở đi cho đến khi cháu Liên đủ 18 tuổi, hoặc cho đến khi có sự thay đổi khác. Anh H chưa phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung, công nợ chung: Chị H không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về án phí: chị Quách Thị H phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm và được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu tiền số 0000617 ngày 10/12/2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Lạc Sơn. Chị Quách Thị H đã nộp đủ án phí.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thì hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

5. Về quyền kháng cáo: Án xử công khai, nguyên đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết công khai tại trụ sở UBND nơi cư trú của bị đơn.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

236
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2019/HNGĐ-ST ngày 29/03/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:03/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lạc Sơn - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về