Bản án 03/2019/HNGĐ-ST ngày 17/09/2019 về không công nhận quan hệ vợ chồng, tranh chấp nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SA PA, TỈNH LÀO CAI

BẢN ÁN 03/2019/HNGĐ-ST NGÀY 17/09/2019 VỀ KHÔNG CÔNG NHẬN QUAN HỆ VỢ CHỒNG, TRANH CHẤP NUÔI CON CHUNG

Ngày 17 tháng 9 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai xét xử công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số: 26/2019/TLST - HNGĐ ngày 10 tháng 5 năm 2019 về việc: “Yêu cầu không công nhận vợ chồng, tranh chấp về nuôi con chung ” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2019/QĐST - HNGĐ ngày 26 tháng 8 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Chảo Mắn M, sinh năm 1981; Địa chỉ: Đội 1, thôn S, xã T, huyện S, tỉnh L; Có mặt.

Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Bà Nông Thị Thúy Hằng – Trợ giúp viên pháp lý thuộc trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Lào Cai; Có mặt.

2. Bị đơn: Anh Lý Quẩy O, sinh năm 1982; Địa chỉ: Đội 1, thôn S, xã T, huyện S, tỉnh L; Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo đơn khởi kiện ngày 10/5/2019 và bản tự khai trong quá trình giải quyết vụ án chị Chảo Mắn M trình bày: Về quan hệ hôn nhân: Chị M chung sống với anh Lý Quẩy O từ năm 2001, không có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Chung sống hạnh phúc đến năm 2008 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, chị M về ở cùng với bố mẹ đẻ tại thôn G, xã B, huyện S, tỉnh L. Hai vợ chồng sống ly thân và không có quan hệ gì về kinh tế và tình cảm. Vì vậy, chị M đề nghị Tòa án nhân dân huyện Sa Pa giải quyết không công nhận vợ chồng giữa chị và anh O.

Về con chung: Trong thời gian chung sống chị M và anh O có hai người con chung là cháu Lý Tả M – Sinh ngày 16/11/2003 hiện đang ở cùng với anh O. Và cháu Lý Lở M – Sinh ngày 25/12/2004 hiện đang ở cùng với chị M. Chị M đề nghị được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Lý Lở M cho đến khi cháu đủ 18 tuổi. Anh O tiếp tục chăm sóc và nuôi dưỡng cháu Lý Tả M cho đến khi cháu đủ 18 tuổi. Không ai phải cấp dưỡng nuôi con  .

Về tài sản chung và công nợ chung: Chị M và anh O không có tài sản và công nợ chung gì, chị không đề nghị Tòa án giải quyết.

Theo lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn anh Lý Quẩy O trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh Lý Quẩy O chung sống với chị M từ năm 2001, không có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Chung sống hạnh phúc đến năm 2008 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, chị M về ở cùng với bố mẹ đẻ tại thôn G, xã B, huyện S, tỉnh L. Hai vợ chồng sống ly thân và không có quan hệ gì về kinh tế và tình cảm. Vì vậy, anh O nhất trí với đề nghị của chị M về việc chị M đề nghị Tòa án nhân dân huyện Sa Pa giải quyết không công nhận vợ chồng giữa chị M và anh O.

Về con chung: Trong thời gian chung sống anh O và chị M có hai người con chung là cháu Lý Tả M – Sinh ngày 16/11/2003 hiện đang ở cùng với anh O. Và cháu Lý Lở M – Sinh ngày 25/12/2004 hiện đang ở cùng với chị M. Anh O đề nghị được tiếp tục nuôi dưỡng và chăm sóc cháu Lý Tả M cho đến khi cháu đủ 18 tuổi. Chị M tiếp tục nuôi dưỡng và chăm sóc cháu Lý Lở M cho đến khi cháu đủ 18 tuổi. Không ai phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và công nợ chung: anh O và chị M không có tài sản và công nợ chung gì, anh O không đề nghị Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa chị M vẫn giữ nguyên toàn bộ yêu cầu khởi kiện.

Quan điểm của trợ giúp viên pháp lý bảo về quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

- Về hôn nhân: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 điều 14, điều 15, khoản 2 Điều 53, Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 28, điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự. Tuyên không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị Chảo Mắn M và anh Lý Quẩy O; - Về con chung: Đề nghị Hội đồng xét xử giao cháu Lý Lở M cho chị Chảo Mắn M trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho tới khi cháu đủ 18 tuổi; Giao cháu Lý Tả M cho anh Lý Quẩy O trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho tới khi cháu đủ 18 tuổi. Hai bên đương sự không phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm về việc tuân theo Pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký là đúng quy định của Pháp luật, việc chấp hành pháp luật của đương sự kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đúng quy định của Pháp luật.

Đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ khoản 1 điều 14, điều 15, khoản 2 Điều 53, Điều 81, 82, 83 luật hôn nhân và gia đình; Điều 28, điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, quyết định không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị Chảo Mắn M và anh Lý Quẩy O;

- Về con chung: Giao cháu Lý Lở M sinh ngày 25/12/2004 cho chị Chảo Mắn M trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng tới khi cháu đủ 18 tuổi; Giao cháu Lý Tả M sinh ngày 16/11/2003 cho anh Lý Quẩy O trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho tới khi cháu đủ 18 tuổi. Hai bên đương sự không phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.

Tuyên án phí, quyền kháng cáo cho các đương sự theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Chị Chảo Mắn M có đơn đề nghị Tòa án nhân dân huyện Sa Pa giải quyết không công nhận vợ chồng giữa chị và anh Lý Quẩy O. Anh O cư trú tại: Đội 1, thôn S, xã T, huyện S, tỉnh L. Theo quy định tại khoản 8 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai thụ lý giải quyết theo thủ tục sơ thẩm là đúng thủ tục tố tụng.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Cả chị Chảo Mắn M và anh Lý Quẩy O đều khai: anh chị tự nguyện chung sống với nhau từ năm 2001, không có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Sau khi Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu lực, theo hướng dẫn tại điểm b khoản 3 Nghị quyết số 35 ngày 09/6/2000 của Quốc Hội khóa 10 về thi hành Luật hôn nhân và gia đình. "Nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03/1/1987 đến ngày 01/01/2001, mà có đủ điều kiện đăng ký kết hôn theo quy định của Luật này thì có nghĩa vụ đăng lý kết hôn trong thời hạn 02 năm, kể từ ngày Luật này có hiệu lực đến ngày 01/01/2003… Từ sau ngày 01/01/2003 mà họ không có đăng lý kết hôn thì pháp luật không công nhận vợ chồng". Từ năm 2001 đến nay tuy có đủ điều kiện kết hôn nhưng chị M và anh O vẫn không đăng ký kết hôn theo quy định là vi phạm Điều 11 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Nay do mâu thuẫn nên chị M yêu cầu Tòa án giải quyết không công nhận vợ chồng giữa chị và anh Lý Quẩy O. Xét thấy yêu cầu của chị M là có căn cứ chấp nhận. Hội đồng xét xử không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị M và anh O theo quy định tại Khoản 4 Điều 3 của thông tư liên tịch số 01 ngày 06/01/2016 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ tự pháp hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Chị Chảo Mắn M và anh Lý Quẩy O có hai con chung là cháu Lý Lở M và cháu Lý Tả M. Xét thấy sự thống nhất ý kiến giữa chị M và anh O về người nuôi con, cấp dưỡng nuôi con là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với nguyện vọng của hai cháu Lý Lở M và cháu Lý Tả M, đồng thời phù hợp với điều 81 Luật hôn nhân và gia đình nên Hội đồng xét xử có cơ sở chấp nhận. Giao cháu Lý Lở M cho chị Chảo Mắn M được tiếp tục nuôi dưỡng và chăm sóc cháu cho đến khi cháu đủ 18 tuổi. Giao cháu Lý Tả M cho anh Lý Quẩy O tiếp tục nuôi dưỡng và chăm sóc cháu cho đến khi cháu đủ 18 tuổi. Chị M và anh O không phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.

[4] Về tài sản chung: Chị Chảo Mắn M và anh Lý Quẩy O đều xác định không có, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Vì vậy, Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Chảo Mắn M phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của Nghị quyết 326/2016/UBTVQHH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội khóa 12.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 8 Điều 28; Điểm a khoản 1 Điều 35; Điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điều 271; Khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.

Căn cứ khoản 1 Điều 9, khoản 1 Điều 14, Điều 15, Điều 53, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQHH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 12.

1. Về hôn nhân: Không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị Chảo Mắn M và anh Lý Quẩy O.

2. Về con chung: Giao cháu Lý Lở M sinh ngày 25/12/2004 cho chị Chảo Mắn M được tiếp tục nuôi dưỡng và chăm sóc cho đến khi cháu đủ 18 tuổi. Giao cháu Lý Tả M, sinh ngày 16/11/2003 cho anh Lý Quẩy O tiếp tục nuôi dưỡng và chăm sóc cho đến khi cháu đủ 18 tuổi. Chị M và anh O không phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom cO mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Chảo Mắn M phải chịu 300.000 đồng tiền án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm. Nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị M đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai số AA/2012/07585 ngày 10/5/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Sa Pa. Chị M đã nộp đủ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Chị Chảo Mắn M và anh Lý Quẩy O được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

351
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2019/HNGĐ-ST ngày 17/09/2019 về không công nhận quan hệ vợ chồng, tranh chấp nuôi con chung

Số hiệu:03/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Sa Pa - Lào Cai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về