Bản án 03/2019/DS-ST ngày 28/05/2019 về tranh chấp hợp đồng tín dụng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MANG YANG, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 03/2019/DS-ST NGÀY 28/05/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG VAY TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 5 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mang Yang, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 38/2019/TLST-DS ngày 18 tháng 9 năm 2018, về “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 03/2019/QĐXXST-DS ngày 26 tháng 3 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ngân hàng NNPTVN.

Địa chỉ: 02 Láng Hạ, phường Thành Công, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trần Trọng Toàn.

Chức vụ: Giám đốc Ngân hàng NNPTVN – Chi nhánh huyện M Đông Gia Lai.

Địa chỉ: Tổ 8, thị trấn K, huyện M, tỉnh Gia Lai. Có mặt.

- Bị đơn: Ông Lê Văn Q - Sinh năm: 1973.

Ngô Thị TH – Sinh năm: 1974.

Cùng địa chỉ: Làng Ch, xã K, huyện M, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Lê Văn Tr, sinh năm 1973;

Địa chỉ: Làng Ch, xã K, huyện M, tỉnh Gia Lai. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo nội dung đơn khởi kiện đề ngày 10/9/2018 lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, thì yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn như sau:

Vợ chồng ông Lê Văn Q và bà Ngô Thị T có ký kết 02 hợp đồng tín dụng với Ngân hàng NNPTVN – Chi nhánh huyện M Đông Gia Lai để vay tiền:

1. Hợp đồng tín dụng số 2017055/HĐTD, ngày 02/3/2017, số tiền vay là 70.000.000 đồng (Bảy mươi triệu đồng), thời hạn vay 12 tháng từ ngày 02/3/2017 đến ngày 01/3/2018, lãi suất vay 10,0 /năm, lãi suất quá hạn tối đa bằng 150 lãi suất cho vay trong hạn, mục đích sử dụng tiền vay: Chi phí sản xuất, kinh doanh đời sống của hộ gia đình. Hình thức bảo đảm tiền vay: Cho vay có cam kết thực hiện bảo đảm bằng tài sản là Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CG670039 do Ủy ban nhân dân huyện Mang Yang cấp ngày 09/02/2017. Ông Lê Văn Q và bà Ngô Thị TH đã nhận tiền vay vào ngày 02/3/2017 và đã trả tiền lãi đến ngày 01/12/2017 với tổng số tiền lãi là 5.347.220 đồng.

Hiện tại ông Q và bà TH còn nợ Ngân hàng theo hợp đồng tín dụng số 2017055/HĐTD số tiền nợ gốc 70.000.000 đồng và số tiền nợ lãi tính đến ngày 28/5/2019 là 14.962.502 đồng, trong đó nợ lãi trong hạn là 1.750.002 đồng và nợ lãi quá hạn là 13.212.500 đồng.

2. Hợp đồng tín dụng số 2017777/HĐTD, ngày 21/8/2017, vay số tiền 1.700.000.000 đồng (Một tỷ, Bảy trăm triệu đồng), theo, thời hạn vay 12 tháng từ ngày 21/8/2017 đến ngày 20/8/2018, lãi suất vay 9,0 /năm, lãi suất quá hạn tối đa bằng 150 lãi suất cho vay trong hạn, mục đích sử dụng tiền vay: Làm sân phơi, trồng mới và chăm sóc hồ tiêu, cà phê. Ông Lê Văn Q và bà Ngô Thị TH đã nhận tiền vay vào ngày 21/8/2017 và đã trả tiền lãi đến ngày 28/02/2018 với tổng số tiền lãi là 81.600.000 đồng.

Hiện tại ông Q và bà TH còn nợ Ngân hàng theo hợp đồng tín dụng số 2017777/HĐTD số tiền nợ gốc 1.700.000.000 đồng và số tiền nợ lãi tính đến ngày 28/5/2019 là 252.662.500 đồng, trong đó nợ lãi trong hạn là 73.525.000 đồng và nợ lãi quá hạn là 179.137.500 đồng.

Tài sản đảm bảo nợ vay của hợp đồng tín dụng số 2017777/HĐTD: Theo Hợp đồng thế chấp..ông Q bà TH thế chấp các tài sản sau:

- Thửa đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BM 590717 do Ủy ban nhân dân huyện Mang Yang cấp ngày 10/6/2013.

- Thửa đất được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số số AM 820544 do Ủy ban nhân dân huyện Mang Yang cấp ngày 09/7/2008; thửa đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AM 820548 do Ủy ban nhân dân huyện Mang Yang cấp ngày 09/7/2008.

- Thửa đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BY 456361 do Ủy ban nhân dân huyện Mang Yang cấp ngày 22/6/2015. Theo hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 2017777/HĐTC ngày 21/8/2017, đã được hòng đăng ký đất đai tỉnh Gia Lai chi nhánh huyện Mang Yang chứng nhận thế chấp ngày 21/8/2017, hợp đồng thế chấp nêu trên đã được công chứng và đăng ký giao dịch bảo đảm theo đúng quy định của pháp luật.

Do ông Lê Văn Q và bà Ngô Thị TH vi phạm nghĩa vụ trả nợ nên Ngân hàng yêu cầu Tòa án giải quyết:

1. Buộc ông Lê Văn Q và bà Ngô Thị TH phải trả cho Ngân hàng số tiền đồng, trong đó tiền nợ gốc là 1.770.000.000 đồng; tiền nợ lãi tính đến ngày 28/5/2019 là 267.625.002 đồng. Ngoài ra Ngân hàng đề nghị Tòa án tiếp tục buộc ông Lê Văn Q và bà Ngô Thị TH phải trả khoản tiền lãi trên số dư nợ gốc theo mức lãi suất nợ quá hạn mà các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng tính từ ngày 29/5/2019 cho đến khi ông Q và bà TH trả hết toàn bộ khoản vay cho Ngân hàng.

2. Trường hợp ông Lê Văn Q và bà Ngô Thị TH không trả được nợ hoặc không trả đủ số nợ trên cho Ngân hàng, thì Ngân hàng được quyền yêu cầu xử lý tài sản đã thế chấp của ông Q bà TH theo hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 2017777/HĐTC ngày 21/8/2017 gồm các thửa đất đã được Ủy ban nhân dân huyện Mang Yang cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BM 590717 cấp ngày 10/6/2013; thửa đất được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AM 820544 cấp ngày 09/7/2008; thửa đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AM 820548 cấp ngày 09/7/2008 để thu hồi nợ cho Ngân hàng. Riêng đối với thửa đất đã được cấp giấy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BY 456361 do Ủy ban nhân dân huyện Mang Yang cấp ngày 22/6/2015 ngân hàng không đề nghị xử lý trong vụ án này. Trường hợp số tiền t việc xử lý tài sản bảo đảm không đủ để thanh toán khoản nợ cho ngân hàng thì Ngân hàng sẽ khởi kiện vụ án dân sự khác để xử lý tài sản thế chấp còn lại của ông Q bà TH.

Đối với bị đơn ông Lê Văn Q và bà Ngô Thị TH: T khi thụ lý vụ án đến nay, Tòa án đã nhiều lần triệu tập, đăng thông báo tìm kiếm người vắng mặt nơi cư trú trên các phương tiện thông tin đại chúng và niêm yết đầy đủ các văn bản tố tụng nhưng ông bà đều vắng mặt không có lý do, do đó Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật. Qua xác minh tại nơi cư trú, chính quyền địa phương cho biết bị đơn ông Lê Văn Q và bà Ngô Thị Thiệt có hộ khẩu thường trú tại làng Chuk, xã Kon Thụp, huyện Mang Yang, tỉnh Gia Lai nhưng hiện nay đã bỏ đi khỏi nơi cư trú, không xác định được hiện đang ở đâu và thời điểm trở về. Tại phiên tòa hôm nay, Tòa án đã triệu tập hợp lệ lần thứ hai để đến tham gia phiên tòa nhưng ông Q, bà TH tiếp tục vắng mặt, do vậy không có lời khai, không cung cấp tài liệu chứng cứ gì để Hội đồng xét xử xem xét.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mang Yang có ý kiến: Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án kể từ ngày thụ lý cho đến thời điểm xét xử và tại phiên tòa đúng theo quy định của pháp luật. Đối với bị đơn đã được triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt tại phiên toà nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt bị đơn. Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Buộc bị đơn ông Lê Văn Q và bà Ngô Thị TH phải có nghĩa vụ thanh toán cho nguyên đơn toàn bộ số tiền nợ gốc là 1.770.000.000 đồng và nợ lãi tính đến ngày 28/5/2019 là 267.625.002 đồng và tiền lãi phát sinh trên dư nợ gốc tính theo lãi suất quá hạn mà các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng số 2017055/HĐTD và số 2017777/HĐTD tính kể từ ngày 29/5/2019 cho đến khi ông Q, bà TH trả hết nợ cho Ngân hàng. Nếu bị đơn là ông Q và bà TH không trả được nợ cho Ngân hàng thì Ngân hàng có quyền xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ.

Về án phí: Buộc bị đơn ông Q và bà TH phải liên đới chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Ngày 14/9/2018, nguyên đơn là Ngân hàng NNPTVN có đơn khởi kiện yêu cầu ông Lê Văn Q và bà Ngô Thị TH thanh toán số tiền nợ gốc là 1.770.000.000 đồng và nợ lãi phát sinh tạm tính đến ngày 10/9/2018 là 93.847.223 đồng. Xét hình thức, nội dung đơn khởi kiện là đúng theo quy định của pháp luật. Đây là tranh chấp về hợp đồng tín dụng thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Theo kết quả xác minh của Tòa án tại UBND xã Kon Thụp, huyện Mang Yang, tỉnh Gia Lai, bị đơn là ông Lê Văn Q và bà Ngô Thị TH có địa chỉ nơi cư trú đúng với địa chỉ mà nguyên đơn đã ghi trong đơn khởi kiện và đúng với địa chỉ ghi trong hợp đồng. Tuy nhiên, khi Tòa án tống đạt thông báo thụ lý vụ án, bị đơn đã đi khỏi nơi cư trú mà nguyên đơn đã cung cấp nhưng không thông báo cho nguyên đơn và cơ quan có thẩm quyền biết về nơi cư trú mới theo quy định tại khoản 3 Điều 40 của Bộ luật Dân sự 2015, cố tình giấu địa chỉ nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án huyện Mang Yang, tỉnh Gia Lai là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự. Tòa án đã thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng về việc thụ lý yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và niêm yết những văn bản tố tụng để tiến hành giải quyết theo thủ tục chung. Bị đơn đã được Tòa án tiến hành thủ tục triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không có lý do nên căn cứ khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Toà án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định của pháp luật.

[2] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Nguyên đơn yêu cầu bị đơn là ông Lê Văn Q và bà Ngô Thị TH phải cùng có nghĩa vụ trả nợ theo Hợp đồng tín dụng số 2017055/HĐTD ngày 02/3/2017 và Hợp đồng tín dụng 2017777/HĐTD ngày 21/8/2017. Xét hình thức và nội dung của các Hợp đồng tín dụng là phù hợp với quy định của Bộ luật dân sự, lãi suất trong hạn và lãi suất quá hạn mà các bên thỏa thuận là phù hợp với quy định của Luật các tổ chức tín dụng. Bị đơn không có ý kiến phản đối nên có căn cứ xác định hai hợp đồng tín dụng này là có thật.

[3] Xét nội dung Hợp đồng tín dụng 2017777/HĐTD ngày 21/8/2017: số tiền vay là 1.700.000.000 đồng Một tỷ, bảy trăm triệu đồng, ngày giải ngân là ngày 21/8/2017 theo giấy nhận nợ ngày 21/8/2017, lãi suất trong hạn là 9 /năm, lãi suất nợ quá hạn là 13,5 /năm (bằng 150 lãi suất cho vay trong hạn). Thời hạn vay đến ngày 20/8/2018 là hết hạn. Quá trình thực hiện hợp đồng thì ông Q bà TH chỉ trả được 01 kỳ tiền lãi là 81.600.000 đồng, ngoài ra không trả bất kỳ khoản nợ gốc và lãi nào khác. Đến ngày 21/8/2018 thì Ngân hàng chuyển sang nợ quá hạn là phù hợp. Tiền lãi trong hạn từ ngày 21/8/2017 đến ngày 20/8/2018 của nợ gốc 1.700.000.000 đồng, lãi suất 9%/năm là 155.125.000 đồng, ông Q bà Tiện đã trả 81.600.000 đồng, nên Ngân hàng yêu cầu số tiền lãi trong hạn là 73.525.000 đồng Bảy mươi ba triệu, năm trăm hai mươi lăm triệu đồng là phù hợp. Tiền lãi quá hạn của nợ gốc 1.700.000.000 đồng, lãi suất 13,5/năm từ ngày 21/8/2018 đến ngày xét xử sơ thẩm là ngày 28/5/2019 là 179.137.500 đồng Một trăm bảy mươi chín triệu, một trăm ba mươi bảy nghìn, năm trăm đồng là phù hợp. Tổng cộng tiền lãi trong hạn và tiền lãi quá hạn tính đến ngày xét xử sơ thẩm 28/5/2019 là 252.662.500 đồng. Như vậy, đối với Hợp đồng tín dụng 2017777/HĐTD ngày 21/8/2017 Ngân hàng yêu cầu ông Q bà TH phải trả số tiền nợ gốc là 1.700.000.000 đồng và tiền lãi là 252.662.500 đồng, tổng cộng là 1.952.662.500 đồng Một tỷ, chín trăm năm mươi hai triệu, sáu trăm sáu mươi hai nghìn, năm trăm đồng là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Xét nội dung Hợp đồng tín dụng 2017055/HĐTD ngày 02/3/2017: số tiền vay là 70.000.000 đồng Bảy mươi triệu đồng, ngày giải ngân là ngày 02/3/2017 (theo giấy nhận nợ ngày 02/3/2017, lãi suất trong hạn là 10 /năm, lãi suất nợ quá hạn là 15 /năm (bằng 150 lãi suất cho vay trong hạn). Thời hạn vay 12 tháng đến ngày 01/3/2018 là hết hạn. Quá trình thực hiện hợp đồng thì ông Q bà TH đã trả được số tiền lãi là 5.347.200 đồng, ngoài ra không trả bất kỳ khoản nợ gốc và lãi nào khác. Đến ngày 02/3/2018 thì Ngân hàng chuyển sang nợ quá hạn là phù hợp. Tiền lãi trong hạn từ ngày 02/3/2017 đến ngày 01/3/2018 của nợ gốc 70.000.000 đồng, lãi suất 10 /năm là 7.097.222 đồng, ông Q bà Tiện đã trả 5.347.200 đồng, nên Ngân hàng yêu cầu số tiền lãi trong hạn là 1.750.002 đồng (Một triệu, bảy trăm năm mươi nghìn lẻ hai đồng là phù hợp. Tiền lãi quá hạn của nợ gốc 70.000.000 đồng, lãi suất 15/năm từ ngày 02/3/2018 đến ngày xét xử sơ thẩm là ngày 28/5/2019 là 13.212.500 đồng Mười ba triệu, hai trăm mười hai nghìn, năm trăm đồng là phù hợp. Tổng cộng tiền lãi trong hạn và tiền lãi quá hạn tính đến ngày xét xử sơ thẩm 28/5/2019 là 14.962.502 đồng. Như vậy, đối với Hợp đồng tín dụng 2017055/HĐTD ngày 02/3/2017 Ngân hàng yêu cầu ông Q bà TH phải trả số tiền nợ gốc là 70.000.000 đồng và tiền lãi là 14.962.502 đồng, tổng cộng là 84.962.502 đồng Tám mươi bốn triệu, chín trăm sáu mươi hai nghìn, năm trăm lẻ hai đồng là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Việc tính lãi do chậm thực hiện nghĩa vụ thực hiện theo hướng dẫn tại Điều 13 của Nghị quyết số 01/2019/NQHĐT, ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về việc Hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm. Cụ thể, vì các bên có thỏa thuận về việc trả lãi nên nếu ông Lê Văn Q và bà Đỗ Thị TH chậm thực hiện nghĩa vụ thì kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm 28/5/2018 cho đến khi thi hành án xong ông Q và bà TH còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành theo mức lãi suất nợ quá hạn mà các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng.

[6] Xét yêu cầu xử lý tài sản đã thế chấp theo hợp đồng thế chấp giữa các bên đã kí kết: Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 2017777/HĐTC ngày 21/8/2017 giữa ông Q, bà TH và Ngân hàng là hợp pháp, nội dung thỏa thuận phù hợp với các quy định của Bộ luật dân sự. Bên thế chấp dùng tài sản thế chấp để đảm bảo cho các khoản nợ gốc, lãi và tất cả các nghĩa vụ liên quan khác. Theo quy định tại khoản 6 Điều 320 và khoản 1 Điều 299 của Bộ luật Dân sự thì trong trường hợp đến hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì bên thế chấp phải giao tài sản thế chấp để xử lý. Vì vậy nguyên đơn yêu cầu được xử lý tài sản thế chấp trong trường hợp bị đơn không thực hiện nghĩa vụ hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ là phù hợp quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Đối với tài sản thế chấp là thửa đất số 00, tờ bản đồ số: trích đo, diện tích 7.752,5 m2, địa chỉ: Làng Chuk, xã Kon Thụp, huyện Mang Yang, tỉnh Gia Lai đã được Ủy ban nhân dân huyện Mang Yang, tỉnh Gia Lai cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BY 456361 ngày 22/6/2015 cho ông Lê Văn Q và bà Ngô Thị TH, qua xem xét thẩm định tại chỗ thì hiện tại trên thửa đất có một phần diện tích ông Lê Văn Tr, sinh năm 1973, địa chỉ: Làng Chuk, xã Kon Thụp, huyện Mang Yang, tỉnh Gia Lai đang canh tác trồng tiêu và cây ăn trái. Trong thời gian chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa đại diện của nguyên đơn và ông Tr đều thống nhất không yêu cầu Tòa án giải quyết vấn đề này trong vụ án này mà sau này khi xử lý tài sản thế chấp các bên sẽ thỏa thuận giải quyết với nhau, nếu có phát sinh tranh chấp thì sẽ khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết bằng vụ án khác. Xét ý kiến thỏa thuận của đại diện nguyên đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là tự nguyện và phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Đối với toàn bộ số tiền lệ phí đăng tin tìm kiếm người vắng mặt nơi cư trú trên phương tiện thông tin đại chúng mà Ngân hàng đã đóng tạm ứng là 3.044.000 đồng, số tiền trên Ngân hàng tự nguyện chịu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[9] Đối với toàn bộ số tiền chi phí xem xét thẩm định tại chỗ là 3.500.000 đồng mà nguyên đơn đã đóng tạm ứng trong quá trình giải quyết vụ án. Nay người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn yêu cầu bị đơn phải chịu toàn bộ chi phí trên. Xét thấy toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên buộc bị đơn ông Lê Văn Q và bà Ngô Thị TH phải chịu toàn bộ chi phí xem xét thẩm định tại chỗ là 3.500.000 đồng, toàn bộ số tiền trên ông Q và bà TH có nghĩa vụ trả lại cho Ngân hàng theo quy định tại khoản 1 Điều 157, Điều 158 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[10] Về nghĩa vụ chịu án phí dân sự sơ thẩm: Toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên nguyên đơn không phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm, bị đơn là người có nghĩa vụ trả nợ nên phải chịu toàn bộ tiền án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30-12-2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Cụ thể, bị đơn phải chịu số tiền án phí dân sự sơ thẩm đối với số tiền phải trả cho Ngân hàng 2.037.625.002 đồng là: 72.752.500 đồng Bảy mươi hai triệu, bảy trăm năm mươi hai nghìn, năm trăm đồng .

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 3 Điều 26; Điều 27, Điều 35, Điều 39, Điều 147, khoản 1 Điều 157, Điều 158, điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228, Điều 235; Điều 266 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30-12-2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

- Áp dụng khoản 3 Điều 40; khoản 1 Điều 299; khoản 6 Điều 320; Điều 465, Điều 466, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015;

Điều 90, 91, Điều 94, Điều 95, Điều 98 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2018; Điều 1 Thông tư 12/2010/TT-NHNN ngày 14/4/2010 của Ngân hàng nhà nước Việt Nam về việc hướng dẫn tổ chức tín dụng cho vay bằng đồng Việt Nam đối với khách hàng theo lãi suất thỏa thuận.

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam.

1. Buộc ông Lê Văn Q và bà Ngô Thị TH phải có nghĩa vụ liên đới trả cho Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam số tiền nợ gốc và nợ lãi tính đến ngày 28/5/2019 là: 84.962.502 đồng (Tám mươi bốn triệu chín trăm sáu mươi hai nghìn năm trăm lẻ hai đồng) Trong đó: Tiền nợ gốc là 70.000.000đồng (Bảy mươi triệu đồng) và tiền nợ lãi tính đến ngày 28/5/2019 là 14.962.502 đồng (Mười bốn triệu chín trăm sáu mươi hai nghìn năm trăm lẻ hai đồng) theo hợp đồng tín dụng số 2017055/HĐTD ngày 02/3/2017. Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm ngày 28/5/2019 cho đến khi thi hành xong, ông Lê Văn Q và bà Ngô Thị TH còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất nợ quá hạn các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng số 2017055/HĐTD ngày 02/3/2017.

2. Buộc ông Lê Văn Q và bà Ngô Thị TH phải có nghĩa vụ liên đới trả cho Ngân hàng NNPTVN số tiền nợ gốc và nợ lãi tính đến ngày 28/5/2019 là: 1.952.662.500 đồng (Một tỷ chín trăm năm mươi hai triệu sáu trăm sáu mươi sáu nghìn năm trăm đồng), trong đó: Tiền nợ gốc là 1.700.000.000đồng (Một tỷ bảy trăm triệu đồng) và tiền nợ lãi tính đến ngày 28/5/2019 là 252.662.500 đồng (Hai trăm năm mươi hai triệu, sáu trăm sáu mươi hai nghìn, năm trăm đồng) theo hợp đồng số 2017777/HĐTD ngày 21/8/2017. Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm ngày 28/5/2019 cho đến khi thi hành xong, ông Lê Văn Q và bà Ngô Thị TH còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất nợ quá hạn các bên thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng số 2017777/HĐTD ngày 21/8/2017.

3. Về xử lý tài sản thế chấp: Trong trường hợp ông Lê Văn Q và bà Ngô Thị TH không trả được hoặc trả không đủ số tiền nợ nêu trên cho Ngân hàng NNPTVN, thì Ngân hàng NNPTVN có quyền xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ theo nội dung các bên đã thỏa thuận trong Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 2017777/HĐTC ngày 21/8/2017.

Trong quá trình xử lý tài sản thế chấp nếu có phát sinh tranh chấp thì các bên liên quan có quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp bằng vụ án dân sự khác theo quy định của pháp luật.

3. Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ: Buộc ông Lê Văn Q và bà Ngô Thị TH phải liên đới trả lại cho Ngân hàng NNPTVN số tiền chi phí xem xét thẩm định tại chỗ là 3.500.000 đồng (Ba triệu năm trăm nghìn đồng).

4. Về án phí: Buộc Ông Lê Văn Q và bà Ngô Thị TH phải liên đới chịu toàn bộ tiền án phí dân sự sơ thẩm là 72.752.500 đồng (Bảy mươi hai triệu, Bảy trăm năm mươi hai nghìn, năm trăm đồng);

Trả lại cho Ngân hàng NNPTVN số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là: 33.957.708 đồng (Ba mươi ba triệu chín trăm năm mươi Bảy nghìn Bảy trăm lẻ tám đồng) theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0004978 ngày 18 tháng 9 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mang Yang, tỉnh Gia Lai.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7a và Điều 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự

5. Thời hạn kháng cáo: Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án ngày 28/5/2019), các đương sự có quyền kháng cáo bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm. Đối với đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn 15 ngày được tính kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

202
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2019/DS-ST ngày 28/05/2019 về tranh chấp hợp đồng tín dụng vay tài sản

Số hiệu:03/2019/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mang Yang - Gia Lai
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 28/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về