Bản án 03/2018/HSST ngày 31/01/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ KỲ ANH, TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 03/2018/HSST NGÀY 31/01/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 31 tháng 01 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Kỳ Anh xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 52/2017/HSST ngày 21-12-2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2018/QĐXXST-HS ngày 16-01-2018 đối với bị cáo:

Võ Thị X, tên gọi khác: Không; Sinh ngày 10 tháng 3 năm 1961, tại Xã K, huyện K, tỉnh Hà Tĩnh; Nơi đăng ký HKTT và chổ ở: Thôn N, xã K, huyện K, tỉnh Hà Tĩnh; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hoá: 07/12; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Con ông: Võ Đình D (Đã chết) và Con bà Dương Thị D (Đã chết); Anh chị em ruột: Có 04 người, bị cáo là con thứ ba trong gia đình; Chồng: Phan Quốc L, sinh năm 1948, Con có 03 đứa, lớn nhất sinh năm 1984, nhỏ nhất sinh năm 1989, hiện đang sinh sống tại xã K, huyện K, tỉnh Hà Tĩnh; Tiền án: Ngày 28-3-2017, bị Tòa án nhân dân huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh xử phạt 08 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 16 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, về tội “Trộm cắp tài sản”, bản án hình sự sơ thẩm số 07/2017/HSST ngày 28-3-2017. Bị cáo hiện đang chấp hành Quyết định thi hành án hình phạt tù cho hưởng án treo số 21/2017/QĐ- CA, ngày 17-5-2017 của Tòa án nhân dân huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh; Tiền sự: Không; Biện pháp ngăn chặn: Bị cáo đã bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 04-01-2017 đến ngày 21-01-2017 theo Bản án hình sự sơ thẩm số 07/2017/HSST, ngày 28-3-2017 của Tòa án nhân dân huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh.

Hiện nay đang bị tạm giữ, tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Tĩnh từ ngày 31-10-2017 cho đến nay. (Có mặt)

Người bị hại: Bà Nguyễn Thị B, sinh năm 1956 (Có mặt)

Địa chỉ: Thôn Ch, xã K, huyện K, tỉnh Hà Tĩnh.

Người làm chứng

1. Chị Trần Thị A, sinh năm 1992. (Vắng mặt)

Địa chỉ: Thôn T, xã K, huyện K, tỉnh Hà Tĩnh.

2. Bà Trần Thị H, sinh năm 1959. (Vắng mặt)

Địa chỉ: Xã K, thị xã K, tỉnh Hà Tĩnh.

3. Bà Mai Thị V, sinh năm 1967. (Vắng mặt)

Địa chỉ: Xã K, huyện K, tỉnh Hà Tĩnh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do có ý định trộm cắp tài sản từ trước, nên khoảng 5 giờ 30 phút ngày 31-10-2017 Võ Thị X đón xe Bus vào thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh. Sau khi xuống xe, X tiếp tục đi đến khu vực các ki ốt bán hàng thuộc Tổ dân phố 2, phường Sông Trí, ngồi quan sát có ai sơ hở để thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Đến khoảng 9 giờ 30 phút cùng ngày, X thấy một người phụ nữ đến ki ốt bán hàng mã của bà Nguyễn Thị B để giao tiền cho bà B, nên X đi đến quầy bán hàng của bà B giã vờ mua hàng. Khi đến nơi, X nói với bà B là mua một số hàng mã để về làm giỗ, nên bà B quay người để lấy hàng bán cho X. Lợi dụng trong lúc bà B đang quay người lấy hàng, X đã nhanh chóng lấy cọc tiền trong rá đựng tiền của bà B, rồi bỏ đi ra khỏi quầy khoảng 3 mét, thì bị bà B phát hiện hô hoán và cùng một số người dân bắt giữ, đồng thời thông báo cho Công an Phường Sông Trí, thị xã Kỳ Anh đến lập biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng để xử lý theo quy định.

Tài sản Võ Thị X chiếm đoạt là loại tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam đang lưu hành với số lượng là 23.200.000 đồng được xác định chủ sở hữu là bà Nguyễn Thị B (Sinh 1956, hộ khẩu thường trú ở xã K, huyện K, tỉnh Hà Tĩnh).

Với hành vi trên, Cáo trạng số 03/CTr –KSĐT ngày 20 tháng 12 năm 2017, Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Kỳ Anh đã truy tố bị cáo Võ Thị X về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại Khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Kỳ Anh vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 138; Điểm g Khoản 1 Điều 48; Điểm p Khoản 1 và khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999, xử phạt: Võ Thị X mức án từ 18 đến 24 tháng tù; Đề nghị áp dụng Khoản 5 Điều 60, Điều 51 Bộ luật Hình sự, chuyển 8 tháng tù cho hưởng án treo theo bản án của Tòa án nhân dân huyện Hương Sơn thành 8 tháng tù giam và tổng hợp hình phạt với bản án mới.

Người bị hại: Đã nhận lại tài sản bị mất, không có yêu cầu gì thêm về bồi thường dân sự và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình, thành khẩn khai báo và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Kỳ Anh, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Kỳ Anh, kiểm sát viên quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo, bị hại không có ý kiến gì khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng theo trình tự thủ tục luật định, đều hợp pháp.

Tại phiên tòa, bị cáo Võ Thị X khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng truy tố. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, do đó có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 09 giờ 30 phút ngày 31-10-2017, tại ki ốt bán hàng mã của bà Nguyễn Thị B thuộc địa phận Tổ dân phố 2, phường Sông Trí, thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh, lợi dụng sự sơ hở trong quản lý tài sản Võ Thị X đã lén lút chiếm đoạt của bà Nguyễn Thị B số tiền 23.200.000 đồng. Hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự  năm 1999. Vì vậy, Bản cáo trạng số 03/Ctr-KSĐT ngày 20-12-2017 của Viện kiển sát nhân dân thị xã Kỳ Anh truy tố, đề nghị xét xử bị cáo về tội danh, điều luật quy định như trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Trong vụ án này, chỉ một mình bị cáo Võ Thị X thực hiện. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, làm mất trật tự trị an xã hội, gây tâm lý lo lắng trong quần chúng nhân dân nên cần phải xử lý nghiêm trước pháp luật nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung đối với xã hội.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo đang có một tiền án về tội trộm cắp tài sản, hiện đang thi hành Quyết định thi hành án phạt tù cho hưởng án treo số 21/2017/QĐ-CA, ngày 15-05-2017 của Tòa án nhân dân huyện Kỳ Anh. Chưa chấp hành xong án lại tiếp tục phạm tội “Trộm cắp tài sản” nên đã phạm vào tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm” theo quy định tại Điểm g Khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình và được người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ Hình sự quy định tại Điểm p Khoản 1 và Khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Xét hành vi, tính chất mức độ phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng: Bị cáo hiện đang chấp hành hình phạt tù cho hưởng án treo về tội trộm cắp tài sản, đang trong thời gian chấp hành thời gian thử thách thì lại tiếp tục có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản nên cần phải cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian để răn đe, giáo dục bị cáo như lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ, phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo.

Về tổng hợp hình phạt: Bị cáo đang trong thời gian thử thách của án treo, đang chấp hành bản án mà lại phạm tội mới nên bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án cũ và tổng hợp hình phạt với bản án mới theo quy định tại Khoản 5 Điều 60, Điều 51 Bộ luật Hình sự 1999.

Về vật chứng: Xét số tiền 23.200.000 đồng, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Kỳ Anh đã trả cho chủ sở hữu là bà Nguyễn Thị B đúng trình tự thủ tục pháp luật nên Hội đồng xét xử miễn xét.

Về dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản đã mất, không có yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử miễn xét.

Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Bị cáo, Người bị hại có quyền kháng cáo bán án trong hạn luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Võ Thị X phạm tội “Trộm cắp tài sản

Áp dụng Khoản 1 Điều 138; Điểm p Khoản 1 và khoản 2 Điều 46; Điểm g Khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 1999;

Xử phạt Võ Thị X 18 (mười tám) tháng tù, thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam 31-10-2017.

Áp dụng Khoản 5 Điều 60, Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 1999, tổng hợp hình phạt với bản án hình sự sơ thẩm số 07/2017/HSST, ngày 28-3-2017 của Tòa án nhân dân huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, buộc bị cáo Võ Thị X phải chấp hành hình phạt chung của 02 bản án là 26 (Hai mươi sáu) tháng tù, thời hạn tù được tính từ ngày 31-10-2017, nhưng bị cáo được trừ thời gian đã tạm giữ, tạm giam từ ngày 04-01-2017 đến ngày 21-01-2017 theo Bản án hình sự sơ thẩm số 07/2017/HSST, ngày 28-3-2017 của Tòa án nhân dân huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh.

2. Về án phí: Áp dụng Khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 3, Khoản 1 Điều 21, Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 và mục A Danh mục án phí, lệ phí Tòa án, ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội, tuyên xử: Buộc bị cáo Võ Thị X phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người bị hại được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

334
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2018/HSST ngày 31/01/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:03/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Kỳ Anh - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về