Bản án 03/2018/HS-ST ngày 14/03/2018 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGA SƠN, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 03/2018/HS-ST NGÀY 14/03/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 14 tháng 3 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 01/2018/HSST ngày 29 tháng 01 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 03/2018/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 02 năm 2018 đối với bị cáo:

Phạm Tuấn V, sinh ngày 25 tháng 10 năm 1991 tại xã T, huyện H, tỉnh Thanh Hóa. Nơi cư trú: xóm 2, xã T, huyện H, tỉnh Thanh Hoá; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Tuấn X và bà Đỗ Thị T; chưa có vợ, con; tiền án: không; tiền sự: không; có mặt.

- Bị hại: Chị Phạm Thị H, sinh năm 1969. Nơi cư trú: xóm 11, xã A, huyện N, tỉnh Thanh Hóa; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Chiều ngày 28/10/2017, Phạm Tuấn V đang ở nhà mình thì Đỗ Văn S là cậu họ gọi điện thoại rủ đi chơi, V đồng ý. S điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Dream chở V đến thị trấn L, huyện HT, tỉnh Thanh Hóa uống nước cùng với bạn của S tên là M nhưng không biết địa chỉ cụ thể ở đâu. Trong lúc uống nước, M rủ S đi trộm cắp tài sản nhưng S nói đang mệt không đi được. M rủ V “đi kiếm con xe, lấy tiền tiêu”. V đồng ý, rồi lấy xe của S chở M đi trộm cắp tài sản, còn S ngồi lại ở quán nước.

Khoảng 17 giờ cùng ngày, Vũ chở Mạnh đi trên quốc lộ 10B, theo hướng từ thị trấn N đi xã A. Khi đi đến địa phận xóm 11, xã A, huyện N thì phát hiện thấy chiếc xe mô tô nhãn hiệu Wave Alpha màu xanh - đen - bạc, biển kiểm soát 36G1-129.60 của chị Phạm Thị H đang dựng ở đường bê tông, gần với quốc lộ 10B và nơi chị H đang tưới rau, xung quanh không có người. M nói V rẽ vào đường bê tông, đi qua xe mô tô của chị H để quan sát. Sau đó, V dừng xe cho M xuống, giả vờ đi vệ sinh, còn V điều khiển xe mô tô quay lại quốc lộ 10B đứng đợi. M đến chỗ để xe của chị H, dùng chìa khóa mang theo mở khóa xe, rồi nổ máy điều khiển xe chạy về hướng thị trấn N, V cũng điều khiển xe mô tô Dream chạy theo sau. Lúc này chị H phát hiện, hò la, chạy đuổi theo nhưng không kịp, còn M và V điều khiển hai xe mô tô chạy đến cầu L ở huyện HT thì dừng lại, đổi xe cho nhau. V điều khiển chiếc xe vừa trộm cắp của chị H mang đến nhà ông Phạm Tuấn Q ở thôn 7, xã T, huyện H gửi.

Tại bản kết luận định giá tài sản ngày 15/11/2017 của Hội đồng định giá huyện Nga Sơn xác định chiếc xe của chị H trị giá 7.800.000 đồng.

Trong quá trình điều tra vụ án, lúc đầu V khai cùng với Đỗ Văn S trộm cắp chiếc xe mô tô của chị H, sau đó V khai người thực hiện hành vi trộm cắp chiếc xe cùng với V là M chứ không phải là S. Tuy nhiên quá trình điều tra, S không có mặt ở địa phương, còn M thì V chỉ biết là bạn của S ở huyện HT, tỉnh Thanh Hóa chứ không biết địa chỉ cụ thể của M ở đâu. Vì vậy, Công an huyện Nga Sơn sẽ tiếp tục điều tra làm rõ ai là người đã cùng với Phạm Tuấn V thực hiện trộm cắp chiếc xe mô tô của chị H để xử lý sau.

Tại bản cáo trạng số 01/CT-VKSND-NS ngày 25 tháng 01 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa đã truy tố Phạm Tuấn V về tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999.

Tại phiên tòa sơ thẩm hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nga Sơn giữ quyền công tố giữ nguyên quan điểm kết tội đối với bị cáo theo tội danh, điều khoản đã nêu trong cáo trạng, không thay đổi, bổ sung gì thêm đối với nội dung vụ án. Sau khi phân tích, đánh giá toàn diện vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX): Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 20; Điều 53; Điều 60 BLHS năm 1999, xử phạt Phạm Tuấn V từ 09 tháng đến 01 năm tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm, không xác định trách nhiệm bồi thường dân sự do bị hại không yêu cầu.

Bị cáo Phạm Tuấn V hoàn toàn thừa nhận và khai báo toàn bộ hành vi trộm cắp tài sản trong vụ án đúng như nội dung bản cáo trạng đã mô tả, không có ý kiến gì đối với các văn bản tố tụng hình sự, cũng như lời khai của bị hại. Bị cáo không có ý kiến tranh luận gì, chỉ đề nghị HĐXX giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định như sau:

[1] Về tội danh: Lời khai báo của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với đơn trình báo cũng như lời khai của bị hại, người làm chứng và các văn bản tố tụng hình sự khác, như: sơ đồ hiện trường vụ án; tài sản trộm cắp được thu giữ … cũng như các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập theo trình tự luật định, phản ánh đúng sự thật khách quan của vụ án.

Như vậy đã có đủ cơ sở khẳng định: Khoảng 17 giờ ngày 28/10/2017, lợi dụng lúc chị Phạm Thị H đang tưới rau ở cánh đồng thuộc địa phận xóm 11, xã A, huyện N, tỉnh Thanh Hóa, Phạm Tuấn V đã cùng với một người tên là M ở huyện HT, tỉnh Thanh Hóa (không biết địa chỉ cụ thể) trộm cắp 01 xe mô tô nhãn hiệu Wave Alpha màu xanh - đen - bạc, biển kiểm soát 36G1-129.60, có giá trị 7.800.000 đồng của chị H, mang về nhà ông Phạm Tuấn Q ở thôn 7, xã T, huyện H gửi. Hành vi nêu trên của Phạm Tuấn V đã phạm vào tội: “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999.

Quan điểm buộc tội của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa đối với bị cáo theo tội danh và khung hình phạt như bản cáo trạng là hoàn toàn thỏa đáng, đảm bảo căn cứ pháp luật.

[2] Về hình phạt: Hành vi của bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội. Hành vi ấy không những đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, mà còn gây mất trật tự trị an, an toàn xã hội ở địa phương, gây tâm lý hoang mang, lo lắng trong nhân dân đối với việc quản lý tài sản.

Xét nhân thân: Bị cáo là thanh niên, tuổi đời còn trẻ, nhưng không chịu lao động, mà thể hiện lối sống tự do, muốn hưởng thụ trên thành quả lao động của người khác. Tuy nhiên, trước khi phạm tội bị cáo là người có nhân thân tốt, đây là lần đầu phạm tội, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, thành khẩn khai báo, tài sản trộm cắp đã được thu giữ và trả lại cho người bị hại.

Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào và được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm h, p khoản 1 Điều 46; khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự 1999 là phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; thành khẩn khai báo; bố bị cáo được thưởng Huân chương chiến công hạng Ba, là người có công với cách mạng.

Đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, xem xét yếu tố nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như đã phân tích, HĐXX thấy không cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà chỉ cần lên cho bị cáo một mức án phù hợp, cho bị cáo được cải tạo tại địa phương dưới sự giám sát của gia đình và chính quyền địa phương cũng đủ điều kiện để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người công dân tốt, đồng thời thể hiện sự chiếu cố và khoan hồng của pháp luật.

[3] Về trách nhiệm dân sự: Cơ quan CSĐT Công an huyện Nga Sơn đã thu giữ và trả lại chiếc xe mô tô cho bị hại Phạm Thị H. Tại phiên tòa hôm nay, chị H vắng mặt, nhưng qua các tài liệu, chứng cứ thể hiện trong hồ sơ vụ án, chị H đã nhận lại tài sản bị trộm cắp, không yêu cầu bồi thường gì thêm, nên HĐXX không đưa ra xem xét.

[4] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: đều thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục và căn cứ theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS). Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đều không có ý kiến hoặc khiếu nại gì đối với các hành vị, quyết định tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong các giai đoạn tố tụng đã thực hiện và ban hành đều hợp pháp, tuân thủ các nguyên tắc tố tụng cũng như đảm bảo việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm được giao theo quy định.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 138; điểm h, p khoản 1 Điều 46; khoản 2 Điều 46; Điều 20; Điều 53; Điều 60 BLHS năm 1999:

- Tuyên bố: Bị cáo Phạm Tuấn V phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

- Xử phạt: Bị cáo Phạm Tuấn V 09(chín) tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01(một) năm 06(sáu) tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã T, huyện H, tỉnh Thanh Hóa giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật Thi hành án hình sự.

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 BLTTHS; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án và Danh mục ban hành kèm theo: bị cáo Phạm Tuấn V phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).

Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 BLTTHS: bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

216
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2018/HS-ST ngày 14/03/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:03/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nga Sơn - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về