Bản án 02/2020/HS-ST ngày 27/10/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Y, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 02/2020/HS-ST NGÀY 27/10/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 10 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Y , tỉnh Sơn La xét xử vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 06/2020/TLST- HS ngày 05 tháng 10 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2020/QĐXXST- HS ngày 07/10/2020 đối với bị cáo:

Mùa A B, sinh năm 1978 tại huyện Y, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Bản C, xã C, huyện Y, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ học vấn: 0/12; dân tộc: Mông; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; đảng phái, đoàn thể: Không; con ông Mùa Lao C, sinh năm 1948 và bà Thào Thị M, sinh năm 1956; vợ: Giàng Thị S, sinh năm 1979 và 03 con (01 con đã chết), con lớn sinh năm 2001, con nhỏ sinh năm 2003; tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Tại bản án số 62/2011/HS-ST ngày 11 tháng 8 năm 2011 của Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh Sơn La xử phạt Mùa A B 24 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 (Đã được xóa án tích). Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/6/2020, đến nay có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Đỗ Văn Thuận – Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Sơn La. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 07 giờ ngày 26/6/2020, Mùa A B mang theo số tiền 60.000đ (Sáu mươi nghìn đồng) đi bộ từ nhà tại bản C, xã C, huyện Yên C đến khu vực giáp ranh biên giới Việt – Lào (Gần cột mốc 243) thuộc bản P, xã C, huyện Y tìm mua ma túy để sử dụng. Tại đây Mùa A B gặp một người đàn ông dân tộc Mông, Quốc tịch Lào (Không biết rõ tên, tuổi, địa chỉ) đang đứng ở đường. Qua trao đổi Mùa A B mua được của người ông dân tộc Mông này 01 gói nilon màu hồng bên trong có chứa 01 viên Methamphetamine và 01 gói nilon màu xanh bên trong có chứa Heroine với giá 60.000đ (Sáu mươi nghìn đồng). Sau khi mua được ma túy Mùa A B đã bẻ một phần viên Methamphetamine sử dụng bằng hình thức đốt hít. Phần viên Methamphetamine còn lại và gói Heroine Mùa A B cất trong túi quần rồi đi bộ về nhà. Khoảng 11 giờ cùng ngày khi Mùa A B đi đến trung tâm bản P, xã Chiềng T, huyện Y thì bị Tổ công tác Công an huyện Y phối hợp với Đồn biên phòng xã C phát hiện bắt quả tang thu giữ toàn bộ vật chứng gồm: 01 túi nilon màu hồng bên trong chứa 01 mảnh viên nén không rõ hình màu hồng nghi là Methamphetamine; 01 gói nilon màu xanh bên trong chứa chất bột màu trắng nghi là Heroine.

Ngày 27/6/2020, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Y phối hợp với Phòng PC09 Công an tỉnh Sơn La đã tiến hành cân tịnh và xác định khối lượng số ma túy thu giữ của Mùa A B: 01 gói nilon màu xanh, bên trong có chứa bột màu trắng, khối lượng 0,24 gam, ký hiệu M gửi giám định; 01 mảnh viên nén không rõ hình màu hồng, khối lượng 0,03 gam, ký hiệu H gửi giám định.

Ngày 03/7/2020 Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La có kết luận giám định số 1130. Kết luận: Mẫu gửi giám định kí hiệu M là ma túy; loại Heroine.Tổng khối lượng ma túy thu giữ là: 0,24 gam, loại Heroine; mẫu gửi giám định ký hiệu H là ma túy, loại Methamphetamine.Tổng khối lượng ma túy thu giữ là và 0,03 gam, loại Methamphethamine. Hoàn lại mẫu giám định M = 0,15 gam không sử dụng đến trong quá trình giám định.

Tại bản cáo trạng số: 63/CT-VKSYC ngày 05 tháng 10 năm 2020 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Y, tỉnh Sơn La truy tố Mùa A B về tội“Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa công khai bị cáo Mùa A B đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đi mua 0,24 gam Heroine và 0,03 gam Methamphethamine về để sử dụng cho bản thân. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với nội dung cáo trạng, phù hợp với các tài liệu chứng cứ, trong hồ sơ vụ án.

Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố, giữ nguyên quan điểm truy tố của Viện kiểm sát và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tuyên bố bị cáo Mùa A B phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Mùa A B từ 18 tháng đến 24 tháng tù.Thời hạn tù tính từ ngày 26/6/2020. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng vụ án, đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, để tịch thu tiêu hủy:

- 01 phong bì niêm phong, mặt trước ghi: Vật chứng vụ Mùa A B, sinh năm 1978, trú tại: Bản C, xã C, huyện Y, tỉnh Sơn La. Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Niêm phong hồi 11 giờ 00 phút ngày 27/6/2020 tại Công an huyện Y, tỉnh Sơn La. Gồm có: 01 phong bì giấy niêm phong vật chứng ban đầu, 01 mảnh nilon màu hồng + 01 mảnh nilon màu xanh.

- 01 phong bì niêm phong, mặt trước ghi: Vật chứng vụ Mùa A B – Tàng trữ trái phép chất ma túy, xảy ra ngày 26/6/2020 tại xã Chiềng Tương, huyện Y, tỉnh Sơn La. Niêm phong hồi 14 giờ 05 phút, ngày 03/7/2020. Tại phòng Kỹ thuật Công an tỉnh Sơn La. Gồm có: Chất bột màu trắng thuộc mẫu gửi giám định ký hiệu M, không sử dụng đến trong quá trình giám định, có khối lượng 0,15 gam + Phong bì niêm phong cũ gửi giám định.

Về án phí: Bị cáo Mùa A B là người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, xã biên giới căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thương vu Quôc hôi, đề nghị miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Người bào chữa cho bị cáo đọc bản luận cứ bào chữa và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bị cáo là người dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, xã biên giới nhận thức và am hiểu pháp luật có phần hạn chế. Sau khi phạm tội bị cáo thành khẩn khai báo ăn năn hối cải. Đề nghị xem xét giảm nhẹ cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất từ 16 đến 18 tháng, đề nghị miễn hình phạt bổ sung, miễn án phí cho bị cáo.

Lời nói sau cùng: Bị cáo nhận thức được hành vi vi phạm của bị cáo là vi phạm pháp luật, mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

1 Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Y, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Y, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

2 Về tội danh: Trong quá trình điều tra, cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình theo đúng nội dung bản cáo trạng mà Viện kiểm sát đã truy tố. Xét lời khai nhận của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang. Kết luận giám định, cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án chứng minh được, vào sáng ngày 26/6/2020 bị cáo Mùa A B đã có hành vi đi mua 0,24 gam Heroine và 0,03 gam loại Methamphethamine của một người đàn ông dân tộc Mông, không quen biết ở khu vực giáp ranh biên giới Việt – Lào (Gần cột mốc 243) thuộc bản Pa Khôm, xã C, huyện Y. Sau khi mua được ma túy bị cáo mang về đến trung tâm bản P, xã C, huyện Y thì bị cơ quan điều tra phát hiện bắt quả tang thu giữ toàn bộ vật chứng. Tại bản kết luận giám định số 1130, ngày 03/7/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: Mẫu gửi giám định kí hiệu M là ma túy; loại Heroine.Tổng khối lượng ma túy thu giữ là: 0,24 gam, loại Heroine; mẫu gửi giám định ký hiệu H là ma túy, loại Methamphetamine.Tổng khối lượng ma túy thu giữ là và 0,03 gam, loại Methamphethamine. Do đó, có đủ cơ sở kết luận hành vi cất giấu trái phép Heroine và Methamphethamine trên của bị cáo Mùa A B đã phạm vào tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, phạm vào điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015. Vì vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Y, tỉnh Sơn La truy tố bị cáo về tội phạm nêu trên là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo:

Bị cáo nhận thức được hành vi cất giữ ma túy là trái pháp luật, bị pháp luật ngăn cấm, nhưng bị cáo là người nghiện ma túy, nên đã bất chấp pháp luật dẫn đến phạm tội. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, nhất là C là xã khu vực biên giới.

Xét về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Mùa A B: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Tuy nhiên bị cáo có nhân thân sấu, Năm 2011 bị cáo Mùa A B bị Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh Sơn La xử phạt 24 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy (Đã được xóa án tích) và bị cáo là đối tượng nghiện chất ma túy.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, cần áp dụng tình tiết này giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Từ những nhận định, đánh giá trên đây, Hội đồng xét xử xét thấy cần có mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra. Đó là cách ly bị cáo ra khỏi xã hội trong một thời gian nhất định để bị cáo có thời gian và điều kiện cải tạo bản thân thành người có ích cho gia đình và xã hội.

[4] Bị cáo đang bị tạm giam cần tiếp tục tạm giam theo quy định tại khoản 1, khoản 3 Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Thời gian tạm giam được tính vào thời gian thụ hình.

[5] Vê hinh phat bô sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000đồng đến 500.000.000đồng, cấm đảm nghiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Tuy nhiên quá trình điều tra và thẩm vấn công khai tại phiên tòa thấy rằng bị cáo Mùa A B không có tài sản có giá trị lớn nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng: 01 phong bì niêm phong, mặt trước ghi: Vật chứng vụ Mùa A B, sinh năm 1978, trú tại: Bản C, xã C, huyện Y, tỉnh Sơn La. Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Niêm phong hồi 11 giờ 00 phút ngày 27/6/2020 tại Công an huyện Y, tỉnh Sơn La. Gồm có: 01 phong bì giấy niêm phong vật chứng ban đầu, 01 mảnh nilon màu hồng + 01 mảnh nilon màu xanh; 01 phong bì niêm phong, mặt trước ghi: Vật chứng vụ Mùa A B – Tàng trữ trái phép chất ma túy, xảy ra ngày 26/6/2020 tại xã Chiềng T, huyện Y, tỉnh Sơn La. Niêm phong hồi 14 giờ 05 phút, ngày 03/7/2020. Tại phòng Kỹ thuật Công an tỉnh Sơn La. Gồm có: Chất bột màu trắng thuộc mẫu gửi giám định ký hiệu M, không sử dụng đến trong quá trình giám định, có khối lượng 0,15 gam + Phong bì niêm phong cũ gửi giám định. Xét thấy đây là những vật cấm Mua bán, lưu hành, không có giá trị sử dụng, cần tiêu hủy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 1, điểm a, khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

[7] Về các vấn đề khác: Đối với người bán ma túy cho bị cáo Mùa A B, theo lời khai của bị cáo đó là người đàn ông, bị cáo không biết tên, địa chỉ. Nơi trao đổi mua bán ma túy thuộc khu vực biên giới Việt Nam - Lào, nên cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Y không đủ điều kiện để điều tra xác minh, làm rõ.

[8] Về án phí: Bị cáo Mùa A B là người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, xã biên giới. Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thương vu Quôc hôi, cần miễn nộp án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tuyên bố bị cáo Mùa A B phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

1.Xử phạt bị cáo Mùa A B 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 26/6/2020 là ngày bắt tạm giữ, tạm giam đối với bị cáo.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

2.Về vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tch thu tiêu hủy số vật chứng gồm: - 01 phong bì niêm phong, mặt trước ghi: Vật chứng vụ Mùa A B, sinh năm 1978, trú tại: Bản C, xã C, huyện Y, tỉnh Sơn La. Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Niêm phong hồi 11 giờ 00 phút ngày 27/6/2020 tại Công an huyện Y, tỉnh Sơn La. Gồm có: 01 phong bì giấy niêm phong vật chứng ban đầu, 01 mảnh nilon màu hồng + 01 mảnh nilon màu xanh.

- 01 phong bì niêm phong, mặt trước ghi: Vật chứng vụ Mùa A B – Tàng trữ trái phép chất ma túy, xảy ra ngày 26/6/2020 tại xã Chiềng T, huyện Y, tỉnh Sơn La. Niêm phong hồi 14 giờ 05 phút, ngày 03/7/2020. Tại phòng Kỹ thuật Công an tỉnh Sơn La. Gồm có: Chất bột màu trắng thuộc mẫu gửi giám định ký hiệu M, không sử dụng đến trong quá trình giám định, có khối lượng 0,15 gam + Phong bì niêm phong cũ gửi giám định.

(Chi tiết vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng giữa cơ quan Công an và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Y).

3. Về án phí: Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Tuyên miễn án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo Mùa A B.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm ( ngày 27/10/2020) bị cáo được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

171
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2020/HS-ST ngày 27/10/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:02/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về